4 bài văn mẫu tìm hiểu nhân vật người phụ nữ hàng chài trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa (dàn ý + 10 mẫu)

Đề bài: tìm hiểu nhân vật người phụ nữ hàng chài trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu

Dàn ý tìm hiểu nhân vật người phụ nữ hàng chài trong Chiếc thuyền ngoài xa

I. Mở bài

– Giới thiệu Nguyễn Minh Châu

– Giới thiệu truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa

– Giới thiệu nhân vật người phụ nữ hàng chài

II. Thân bài

1. Tên tuổi

– Không tên tuổi cụ thể, gọi phiếm định “người phụ nữ hàng chài”, “mụ”.

– Chỉ là một người vô danh như bao người phụ nữ vùng biển khác, nhưng số phận con người ấy lại được tác giả tập trung thể hiện và được người đọc quan tâm nhất trong truyện ngắn này.

2. Vóc dáng ngoại hình

– Thô kệch, rỗ mặt, lúc nào cũng xuất hiện với “khuôn mặt mỏi mệt”- đó là hình anh một con người lam lũ, mất hết sinh lực, niềm vui, sức sống.

– Nghèo khổ, nhọc nhằn (lưng áo bạc phếch)

– tự ti, tự ti ( dáng vẻ lúng túng)

=> Nhà văn thể hiện nỗi xót thương cho số phận con người ngay khi trình bày ngoại hình, dáng vẻ của nhân vật.

3. Số phận khổ đau, xấu số

*Chuyển ý: Nguyễn Minh Châu không chỉ ngừng lại ở vẻ ngoài của nhân vật mà ngòi bút thấm đẫm ý thức nhân đạo của ông đã lách thật sâu để khám phá cho được cái mạch ngầm hiện thực về số phận xấu số của người phụ nữ hàng hàng.

– Một người phụ nữ xấu số, nhẫn nhục chịu đựng (người phụ nữ bị đánh)

– Người phụ nữ chịu những nỗi khổ đau chồng chất: mỏi mệt sau những đêm thức trắng kéo lưới, chịu đựng những trận đòn của chồng, nơm nớp lo sợ con cái bị tổn thương khi phải chứng kiến cảnh bạo lực gia đình.

4. Vẻ đẹp tâm hồn và tính cách

* Chuyển ý: Đằng sau cái vóc dáng thô kệch ấy, đằng sau cái vẻ ngoài rách rưới ấy, đằng sau cái hành động nhẫn nhịn ấy người đọc còn trông thấy vẻ đẹp tâm hồn, tính cách khuất lấp của người phụ nữ hàng chài này.

* Chuyển ý hay hơn:

nếu như độc giả từng yêu nhân vật nữ trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu thì sẽ thấy không ở đâu yếu tố “thiên nữ tính” lại thăng hoa tuyệt vời ở người phụ nữ rách rưới này.

a. Vẻ đẹp của một người từng trải sâu sắc: đẹp nhất nhưng đặc biệt nhất

– Nguyên nhân vũ phu của người chồng: do hoàn cảnh ép buộc chứ không phải bản tính

– Người phụ nữ hàng chài cần một người đàn ông trên thuyền để chống chèo khi phong ba bão táp ập tới.

– Từ khi có Đảng, nhà nước cuộc sống còn bất cập: không hợp lý, không hợp lòng dân.

b. Vẻ đẹp khoan dung, nhân hậu, rộng lượng: thiên chức của người phụ nữ.

– Chị tự nguyện cho chồng đánh, không kêu, không chống trả, không chạy trốn -> Một kẻ ngu tối chìa lưng cho chồng đánh (cái nhìn từ xa)

– Nhìn vào tấm lưng bạc phếch (nhìn vào cái nghèo đói, khổ đau), ông ta thương vợ nên ông ta đánh vợ => biểu hiện tiêu cực.

– Chị không trách chồng mà kéo tội lỗi về phía mình (vẻ đẹp nhân hậu của người phụ nữ Việt Nam)

– Chị chấp nhận những trận đòn như một cách giải tỏa những bức bách, u uất trong lòng người chồng -> hi sinh cao cả, chị hiểu chồng mình

– Chị thấy trong chuyện này mình là người có lỗi.

c. Vẻ đẹp tình mẫu tử thiêng liêng

– “Người phụ nữ hàng chài chúng tôi sống cho con chứ không phải sống cho mình”

-> Người mẹ này vừa thương con vô cùng, khi vô tình để thằng bé Phác nhìn thấy cảnh trái ngang -> vừa đớn đau, vừa xấu hổ

– Van nài đứa con, ôm chầm lấy nó -> sợ nó hành động dại dột với bố nó.

– Khi nhắc tới cảnh hòa thuận trên thuyền, chị hạnh phúc khi “ngồi nhìn đàn con chúng nó được ăn ngon”, “khuôn mặt xám xịt của mụ chợt ửng sáng lên như một nụ cười”

III. Kết bài

     Khép lại câu chuyện về người phụ nữ vô danh vùng biển, nhưng người đọc không khỏi băn khoăn, day dứt. Vấn đề dặt ra là làm thế nào để số phận những người phụ nữ như người phụ nữ kia thoát khỏi những thảm kịch của cuộc thế? Bằng việc khắc hoạ rõ nét chân dung người phụ nữ hàng chài, Nguyễn Minh Châu đã gửi tới người đọc một thông điệp đầy ý thức nhân văn: Thời đại nào con người ta cũng cần phải có sự thương yêu, lòng thông cảm, phải có niềm tin vào cuộc thế.

tìm hiểu nhân vật người phụ nữ hàng chài trong Chiếc thuyền ngoài xa – mẫu 1

    Nguyễn Minh Châu là một cây bút tài năng của văn học Việt Nam. Không ồn ào, phô trương, một cách lặng lẽ, lặng lẽ ông đã tự tìm tòi, cải cách những sáng tác của mình. Chiếc thuyền ngoài xa là truyện ngắn xuất sắc không chỉ của Nguyễn Minh Châu mà còn là một thành tựu vượt bậc trong quá trình đổi mới của văn học Việt Nam sau 1975. Tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật cũng như tư tưởng của ông. Trong tác phẩm này ngoài nhân vật người phụ nữ hàng chài, còn phải kể tới nhân vật Phùng – người nghệ sĩ có tâm và có tầm.

    Trước hết, Phùng là một người nghệ sĩ tài hoa, nhạy cảm trước cái đẹp. Phùng được trưởng phòng ủy quyền nhiệm vụ chụp một bức ảnh nữa để bổ sung vào bộ lịch năm ấy và đã yêu cầu nghệ sĩ Phùng là người thực hiện nhiệm vụ. Đây là nhiệm vụ vô cùng khó khăn, nghệ sĩ Phùng phải rất tài giỏi thì mới được trưởng phòng ủy quyền nhiệm vụ quan trọng tương tự. Trước nhiệm vụ quan trọng, Phùng rất có trách nhiệm, anh ngay tức khắc xách máy ảnh lên đường, về vùng biển miền Trung. Trong một tuần lễ anh luôn xách máy ảnh đi từ sáng sớm tới khuya, đi dọc bờ biển, để tìm được một bức ảnh thật sự hài lòng. Và trời đã không phụ tấm lòng, công sức anh bỏ ra, anh đã thu về một bức ảnh trời cho.

    Bức tranh ấy là khoảnh khắc vô cùng giản dị, nhưng toát lên vẻ đẹp trong sáng, toàn bích từ màu sắc tới đường nét, bố cục. Màu sắc là sự hòa quyện của “bầu sương mù trắng như sữa” “màu hồng của anh mặt trời chiếu vào”. Đường nét ít song rất tinh, bản thân nó tựa như một bức tranh mực tàu của danh họa thời cổ. Còn bố cục thì đơn thuần, song cân đối, hài hòa. Bức tranh ấy có tác động mạnh mẽ tới tâm trạng, xúc cảm của Phùng: “Đứng trước nó tôi trở nên bối rối” trong tim nhường như có gì bóp thắt vào “tôi tưởng chính mình vừa khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Qua những xúc cảm của nhân vật Phùng, ta có thể thấy anh là người rất nhạy cảm trước cái đẹp, biết yêu và tôn thờ cái đẹp. Cũng từ đó, nhà văn đã đem tới cho người đọc một nhận thức mới mẻ: nghệ thuật chân chính trước hết đem cho ta niềm hạnh phúc, sự thỏa mãn khi được chứng kiến hình hài, dáng vẻ của cái đẹp. Nhưng quan trọng hơn là thứ nghệ thuật ấy giúp tâm hồn con người được thanh lọc, hướng thiện và trở nên tươi sáng hơn. Nghệ thuật thực thụ bao giờ cũng hướng tới nâng đỡ con người tới cái đích của chân – thiện – mĩ.

    Không chỉ là một người họa sĩ tài năng, Phùng còn là người nghệ sĩ có tấm lòng với cuộc thế và con người. Trong lần về miền biển miền Trung, anh đã chứng kiến cảnh bạo hành trong gia đình người phụ nữ hàng chài. Anh ngỡ ngàng trước quang cảnh ấy và tức khắc vứt chiếc máy ảnh xuống đất, nhào tới để can ngăn, viện trợ người phụ nữ. Đối với một người nghệ sĩ nhiếp ảnh thì máy ảnh chính là vật dụng quý nhất, cần nâng niu nhất vậy mà anh khi chứng kiến cảnh bạo hành anh không quan tâm tới mà tức khắc chạy tới cứu giúp người phụ nữ tội nghiệp. Đối với anh quý giá hơn cả vật chất và ý thức, đó là con người.

    Tuy đã thực hiện xong nhiệm vụ được giao nhưng vẫn ở lại vì anh quan tâm tới gia đình hàng chài này, thấy mình không thể đứng ngoài cuộc mà phải làm điều gì đó. Và đó cũng là lần thứ hai anh chứng kiến cảnh người phụ nữ hàng chài bị bạo hành. Lần này anh đã lao vào can thiệp, nhưng sức của một người nghệ sĩ không thể địch lại nổi sức khỏe của một người đàn ông vạm vỡ, anh đã bị thương. Nhưng với tấm lòng của mình, anh vẫn không yên tâm, mà nhờ tới sự viện trợ của chánh án tòa án huyện.

    Và một đặc điểm quan trọng của người nghệ sĩ này chính là luôn trằn trọc với thiên chức nghề nghiệp của mình. Trước hết, đó là nhận thức qua hai phát hiện ban đầu của Phùng: cái đẹp gắn liền với cái thiện và phát hiện cái xấu, cái ác. Trong lần trước tiên, nhìn thấy quang cảnh trời cho, Phùng đã vô cùng nghẹn ngào xúc động, khoảnh khắc ấy khiến trong tâm hồn anh trở nên đẹp đẽ, trong sáng hơn. Ở đây cái đẹp gắn liền với cái thiện, hướng con người tới cái đích của chân – thiện – mĩ. Nhưng ngay sau bức tranh toàn mĩ đó lại là hiện thực nhói lòng, cảnh người phụ nữ hàng chài bị đánh, khiến Phùng bang hoàng trông thấy, cái xấu, cái ác đằng sau bức tranh mộng mơ kia. Chiếc thuyền ngoài xa chính là hình ảnh cuộc thế khi ta nhìn nó một cách nông cạn. Bởi vậy, Phùng đã rút ra cho mỉnh nhận thức trước tiên khi nhìn nhận con người, sự việc phải nhìn ngắm, thật kĩ lưỡng, nhiều chiều.

    Không ngừng lại ở đó, qua câu chuyện người phụ nữ hàng chài kể ở tòa án huyện, Phùng còn nhận thức ra nhiều điều về cuộc thế và con người. Thì ra cuộc thế không đơn thuần, xuôi chiều như anh vẫn nghĩ, mà nó vô cùng đa đoan, phức tạp. Cuộc sống tồn tại rất nhiều nghịch lí, ngang trái mà thỉnh thoảng ta không thể thay đổi, chỉ có thể học cách chấp nhận chúng. Và con người cũng không đơn thuần, xuôi chiều mà phức tạp, da chiều. Trong mỗi con người tồn tại cả rồng, phương, rắn rết cả cái cao cả lẫn cái thấp hèn. Nhận thức được sự không tuyệt vời của con người, nên Nguyễn Minh Châu đã đặt ra yêu cầu phải có cái nhìn bao dung, rộng lượng và nhân văn hơn khi xem xét và đánh gia scon người.

    Bức tranh một lần nữa xuất hiện cuối tác phẩm, đem tới những nhận thức mới cho người nghệ sĩ Phùng. Đằng sau lớp sương hồng được ánh nắng chiếu vào là thấp thoáng chân dung người phụ nữ trên thuyền. Qua hình ảnh đó, Phùng trông thấy rằng nghệ thuật không phải là phương tiện ghi lại hình xác cuộc sống mà nó còn phải bắt được vong hồn, trung tâm của cuộc sống là con người. Nhắc lại những đặc đểm của người phụ nữ cho thấy con người giản dị, vô danh nhưng mang trong minh sự vị tha, kiên cường chính là đối tượng để nghệ thuật hướng tới ngợi ca. Nghệ thuật phải gắn liền với cuộc sống, không được xa rời cuộc sống và phải quay trở về để phục vụ cuộc sống.

    Với nhân vật Phùng, Nguyễn Minh Châu đã gián tiếp thể hiện những ý kiến, tư tưởng nghệ thuật của mình. Không ngừng lại ở đó, nó còn là quan niệm về con người và cuộc thế. Đây là những quan niệm hết sức sâu sắc và mới mẻ, cho thấy sự thay đổi quan niệm về con người của ông. Đặt nhân vật vào những tình huống nhận thức khác nhau, đã giúp Nguyễn Minh Châu làm vượt bậc tư tưởng, chủ đề của tác phẩm.

tìm hiểu nhân vật người phụ nữ hàng chài trong Chiếc thuyền ngoài xa – mẫu 2

   Sáng tác của Nguyễn Minh Châu chia làm hai giai đoạn, nếu như như giai đoạn trước, những nhân vật luôn được đặt vào bầu không khí vô trùng thì tới giai đoạn sau với cảm hứng thế sự, những nhân vật có rất nhiều chuyển biến rõ nét. Người phụ nữ hàng chài trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa chính là một nhân vật tiêu biểu. Cũng qua nhân vật này tác giả gửi gắm trị giá nhân đạo sâu sắc của mình.

    nếu như như những nhân vật khác trong tác phẩm đều có một cái tên rõ ràng, như Phùng, Đẩu, thằng Phác, thì người phụ nữ xuất hiện trong tác phẩm này lại chỉ được gọi một cách phiếm chỉ “người phụ nữ làng chài”. Phải chăng thông qua cái tên mang tính chất phiếm chỉ này, nhà văn muốn gửi gắm tới độc giả thông điệp: người phụ nữ kia chính là đại diện cho biết bao số phận người phụ nữ, giàu lòng yêu thương, giàu đức hi sinh trong cuộc sống còn vô vàn thống khổ, khắc nghiệt.

    Người phụ nữ xuất hiện trong tác phẩm qua nhận xét của Phùng vô cùng đặc biệt – ngoại hình xấu xí, thực không mấy ưa nhìn. Đó là người phụ nữ mặt rỗ, dáng vẻ mỏi mệt, thân hình thô kệch lam lũ. Sau này, đi sâu vào trong tác phẩm và nghe những lời tâm sự của người phụ nữ ta mới biết, chị vốn sinh trong một gia đình khá giả, nhưng vì một trận ốm mà mặt rỗ, không người nào lấy. Hình ảnh chị cam chịu nhẫn nhục để người chồng lấy thắt lưng vụt túi bụi, đã phần nào hé lộ số phận bi lịch, xấu số của chị.

    Dù chị có số phận bật hạnh tương tự, nhưng ta cũng không thể phủ nhận ẩn sâu trong người phụ nữ ấy là những vẻ đẹp, phẩm chất đáng quý. trước tiên ta thấy được chị là người phụ nữ có khả năng chịu đựng cao. Có thể thấy, như lời chị tâm sự “ba ngày một trận nhẹ, bảy ngày một trận nặng” cứ khi chồng chị bực là chị bị đánh. Thì có thể thấy rằng, việc chị bị đánh diễn ra hàng ngày, hàng giờ. Mặc dù bị hành tội về thể xác tương tự, nhưng chị vẫn cam chịu nhẫn nhục, không hề kêu than, không hề chống trả, hay tìm cách chốn chạy. Bởi đối với chị chịu đựng cũng là một lẽ đương nhiên của những người phụ nữ sống ở miềm biển.

    Không chỉ vậy người phụ nữ làng chài còn là một người phụ nữ giàu lòng tự trọng, vô cùng yêu thương con. cuộc thế chị hi sinh tất cả về con, khi bị người chồng đánh, chị xin hắn lên bờ đánh, để những đứa trẻ không phải nhìn thấy cảnh ấy. Chị đặc biệt thương thằng Phác, nên đã gửi nó lên rừng ở cùng ông. Khi Phác thấy bố đánh mẹ, đã ngay tức khắc xông vào, chị sợ hãi, quỳ sụp xuống van xin. Chị sợ thằng Phác sẽ bị thương. Trong những lời vô cùng thật tình, chị cũng cảm thấy vui, hạnh phúc khi nhìn thấy những đứa con mình được ăn no “trên khuôn mặt xấu xí của mụ chợt ửng sáng lên như một nụ cười khi nghĩ tới những niềm vui nhỏ bé mà gia đình bà từng có và đặc biệt khi nghĩ tới cảnh đàn con được ăn no”. Hạnh phúc quả thực bình dị của một người mẹ nghèo. Thương con, hi sinh vì con cũng là lí do vì sao chị kiên quyết không bỏ chồng, bởi với những người dân miền biển, ngày đêm đối mặt với sóng gió không thể thiếu đôi vai vững chắc của người đàn ông. Hành động, suy nghĩ đó của chị càng khẳng định hơn nữa tình mẫu tử sâu nặng chị dành cho con.

    Không chỉ vậy, chị còn là một người thấu hiểu lẽ đời, đã đem tới cho cả Phùng và Đẩu những bài học, những quan niệm khác về con người và cuộc thế. Dù chị bị giày xéo về phẩm giá, bị hành tội về thể xác nhưng chị tới tòa án huyện trước những lí lẽ của mình, ta không còn thấy một người phụ nữ quê mùa, ít học, mà thay vào đó là một người phụ nữ thấu tình đạt lí, thấu hiểu sự đời. Ban đầu chị rụt rè, sợ hãi, bởi đây là lần đầu chị tiếp xúc với một không gian mới. Chị ngồi sâu vào trong một góc, cố để không người nào chú tâm tới mình. Những lời lẽ vô cùng hạ mình, nhỏ bé tới tối nghiệp trước Phùng và Đẩu “con” “van xin” “quý tòa”. Hình ảnh của chị thật đáng thương, khiến cho cả hai người đàn ông không khỏi khó xử. Nhưng sau khi lấy lại được tĩnh tâm, chị đã nhanh chóng thay đổi cách xưng hô: “Chị cảm ơn những chú”. Có một sự đổi vai nhanh chóng giữa hai đối tượng, người giáo huấn và người được giáo huấn giữa Phùng, Đẩu và người phụ nữ làng chài. Với những suy nghĩ, trải nghiệm trong cuộc thế, lí lẽ đời đã thắng những lí lẽ giáo điều sách vở của Phùng và Đẩu. Bằng sự từng trải của bản thân, tình yêu thương con và đức hinh sinh, người phụ nữ làng chài đã khiến cho hai người đàn ông thay đổi suy nghĩ, khiến họ thông cảm cho số phận và cuộc thế mình. Nhìn vào cuộc thế chị người ta mới thấu rằng cuộc thế này vốn đầy những đa đoan, nhìn ngoài sao có thể thấu hết hững vấn đề ở xung quanh.

    Hình ảnh người phụ nữ làng chài là đại diện tiêu biểu cho số phận người phụ nữ trong xã hội vừa bước chân ra khỏi chiến tranh. Cuộc sống nghèo đói lạc hậu, bạo lực gia đình đã dồn họ vào ngõ cùng tối tăm. Nhưng trong bóng tối tưởng thăm thẳm đó lại ngời sáng những đức tính đẹp đẽ của người phụ nữ nông dân hồn hậu: yêu thương chồng con, đức hinh sinh và tình mẫu tử cao đẹp.

tìm hiểu nhân vật người phụ nữ hàng chài trong Chiếc thuyền ngoài xa – mẫu 3

   Nguyễn Minh Châu là nhà văn tiêu biểu cho văn học Việt Nam thời chống Mĩ, cũng là “người mở đường tinh nhanh và tài năng” (Nguyên Ngọc) cho công cuộc đổi mới văn học từ sau 1975. Nhà nghiên cứu hàng đầu Nga Ni Culin nhận xét: “những nhân vật của Nguyễn Minh Châu trước 1980 được Nguyễn Minh Châu tắm rửa sạch sẽ, được bao bọc trong bầu không khí vô trùng”. Ta có thể thấy điều ấy qua nhân vật Nguyệt trong “Trăng sáng”. Giai đoạn sau này, vượt bậc là truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” mang nhiều cảm hứng thế sự cùng những triết lí nhân sinh hơn. Nhưng ý kiến sáng tác của ông là “gắng đi tìm những hạt ngọc còn ẩn giấu trong bề rộng tâm hồn con người” thì không thay đổi. Nhân vật trung tâm của tình huống truyện nghịch lý trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” chính là người phụ nữ hàng chài. Từ nhân vật này, nhà văn bộc lộ tấm lòng nhân đạo và gửi gắm những bức thông điệp về nghệ thuật và cuộc thế.

    Đọc tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” ta thấy nhân vật người phụ nữ hàng chài được nhà văn giới thiệu là người phụ nữ trạc ngoài 40. Và khi đề cập tới nhân vật này Nguyễn Minh Châu không gọi bằng một cái tên cụ thể nào cả mà gọi một cách phiếm định: “mụ”, “người phụ nữ hàng chài”…Việc nhà văn không đặt tên cho nhân vật của mình không phải ngẫu nhiên vô tình mà đó là một dụng ý nghệ thuật sâu xa: Ông muốn nhấn mạnh đây chỉ là một trong vô số những người phụ nữ khổ đau, xấu số, cần thông cảm sẻ chia mà thôi.

    Người phụ nữ hàng chài mang một thân hình thân thuộc của người phụ nữ vùng biển với những nét thô, mặt rỗ “khuôn mặt mỏi mệt sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và nhường như buồn ngủ. Đây chính là hình ảnh một người lao động lam lũ và khổ đau. có nhẽ gánh nặng của cuộc mưu sinh đầy sóng gió trên biển cả đã ấy đi tất cả của chị: sinh lực, niềm vui và sức sống. Sự nghèo khổ nhọc nhằn tới mức nhếch nhác, thảm hại còn hiện rõ trong chi tiết trình bày tấm lưng áo bạc phếch, rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng. Sự khốn khổ của chị còn hiện ra ngay trong dáng vẻ: ” sợ sệt, lúng túng” khi ở tòa án, “tìm tới một góc tường để ngồi”. Thậm chí khi Đẩu phải mời tới lần thứ hai chị mới “rón rén tới ngồi ghé vào mép chiếc ghé và cố thu người lại”. có nhẽ đó là dáng vẻ của một con người tội nghiệp luôn thấy sự có mặt của mình trong cuộc thế này là một phi lí, luôn tự ti, tự ti và do vậy muốn hạn chế sự vướng víu, phiền toái tới khó chịu mà mình có thể gây ra cho mọi người xung quanh.

Xem thêm bài viết hay:  KINH NGHIỆM lựa chọn TRƯỜNG QUỐC TẾ CHO CON

    Nguyễn Minh Châu không chỉ ngừng lại ở vẻ ngoài của nhân vật mà ngòi bút thấm đẫm ý thức nhân đạo của ông đã lách thật sâu để khám phá cho được cái mạch ngầm hiện thực về số phận xấu số của người phụ nữ hàng chài. Ấn tượng lớn nhất về sự xấu số mà người phụ nữ đưa và cho người đọc chính là thái độ cam chịu nhẫn nhục của chị. Khi đi qua bãi xe tăng hỏng trước lúc tới bên chiếc xe, người phụ nữ đứng lại “ngước mắt nhìn ra ngoài ….rồi đưa một cánh tay lên định gãi hay sửa lại mái tóc nhưng rồi lại buông thõng xuống đưa cặp mắt nhìn xuống chân”. Có thể nhận thấy đây là nơi quá thân thuộc với chị, một sự thân thuộc kinh khủng bởi những trận đòn đã thành lệ của người chồng: ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng. Cặp mắt nhìn xuống chân mỏi mệt như một kẻ tội đồ chờ đợi một hình phạt không tránh khỏi. Khi bị đánh man di, người phụ nữ chịu đòn với vẻ cam chịu nhẫn nhục, đó là thái độ của một con người đang nhẫn nhục thực hiện nghĩa vụ khổ đau của mình, không oán thán, không bất bình, không né tránh.

    Người phụ nữ hàng chài không chỉ bị hành tội về mặt thể xác, mỏi mệt sau những đêm thức trắng kéo lưới, không chỉ chịu đựng những đớn đau từ những trận đòn tàn bạo của người chồng vũ phu mà còn bị giày vò nặng nề về những đớn đau ý thức, về sự non nớp lo sợ con cái bị tổn thương khi phải chứng kiến những cảnh đời trái ngang. Mô tả hình ảnh một người mẹ vừa khóc vừa phải “chấp tay vái mấy vái để đứa con để nó đừng phảm phải một tội ác trái luân thường đạo lí”. Nguyễn Minh Châu đã thể hiện nỗi xót thương cho sự khổ đau cùng cực của người phụ nữ hàng chài. Chưa hết, chị còn bị gánh nặng cơm áo, cuộc sống nghèo túng đẩy vào cái vòng quẩn quanh xấu số. Trước năm 1975 mỗi khi biển động cả nhà toàn ăn xương rồng luộc chấm muối. Khi cách mệnh về cuộc sống đỡ đói khổ hơn nhưng nỗi lo cơm áo vẫn tồn tại.

    Từ thân phận người phụ nữ hàng chài, Nguyễn Minh Châu muốn gợi ra cho người đọc những suy nghĩ âu lo: cuộc đấu tranh chống lại nghèo đói tăm tối và bạo lực còn gian truân trong khoảng thời gian dài hơn cuộc đấu tranh chống ngoại xâm. Và chừng nào còn chưa thoát khỏi cuộc sống nghèo đói chừng đó con người vẫn phải chung sống với cái xấu, cái ác. Chúng ta đã đổ xương máu trong bao năm qua để giành được độc lập tự do trong cuộc đấu tranh vì quyền sống của cả dân tộc. Nhưng chúng ta sẽ còn phải tiếp tục làm gì đây trong cuộc đấu tranh giành quyền sống của từng con người, làm gì để đem lại cơm ăn áo mặc và ánh sáng văn hóa cho biết bao con người đang đắm chìm trong kiếp sống nghèo đói u tối.

    nếu như độc giả từng yêu nhân vật nữ trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu thì sẽ thấy không ở đâu yếu tố “thiên nữ tính” lại thăng hoa tuyệt vời như ở người phụ nữ rách rưới này. Vẻ đẹp khuất lấp mà người đọc cảm nhận được trước hết ở người phụ nữ hàng chài đó là vẻ đẹp sâu sắc từng trải. Nói chuyện với Đẩu và Phùng, người phụ nữ hàng chài quê mùa thất học hiểu lẽ đời khiến Đẩu và Phùng trở thành những người nông nổi, nông cạn. Trong khi Đẩu và Phùng bất bình trước người chồng tàn nhẫn, thấy ông ta là kẻ độc ác nhất thì người phụ nữ hàng chài đã giúp họ trông thấy bao điều sâu xa của cuộc sống. Chị cho biết: chồng chị vốn là anh con trai hiền lành, cục tính, nhưng rơi vào cuộc sống luẩn quẩn, bế tắc cho nên trở thành kẻ tha hóa, vũ phu tàn nhẫn. Đó là một sự nhìn nhận sâu xa, thấu hiểu lẽ đời. Người đàn chỉ rõ sự thiếu thực tế của Đẩu và Phùng: “Lòng những chú đâu phải là người làm ăn… cho nên những chú đâu có hiểu được cái việc của người làm ăn lam lũ nặng nhọc”. Người phụ nữ hàng chài đã chỉ ra một hiện thực tàn nhẫn: họ cần một người đàn ông để chống chèo lúc phong ba sóng gió dù hắn có man dợ, tàn bạo tới đâu. tương tự, chị đã cho Phùng và Đẩu thấy được sự khó khăn gấp bội của những người phụ nữ trong những cuộc mưu sinh trên biển cả, luôn bất cập, tiềm tàng những hiểm họa, đe dọa. Người phụ nữ hàng chài còn chỉ ra sự bất cập trong cuộc sống của Đảng, của chính quyền cách mệnh. Chị cho thấy từ ngày cách mệnh về, cách mệnh đã cấp đất cho họ nhưng chẳng người nào ở vì không thể bỏ được nghề bởi sự tồn tại của họ gắn chặt với nghề. Tiếng thở dài của Đẩu, nghi vấn băn khoăn, tò mò của Phùng, cảm giác bất lực của hai người khi trông thấy những giải pháp xuất phát từ lòng tốt và thiện chí của họ trở nên phi thực tế. Những điều đó đã tạo ra một đối sánh với người phụ nữ hàng chài từng trải, hiểu đời, hiểu người, hiểu những điều có thể và không thể. Sự sâu sắc của chị khiến người đọc cảm phục nhưng cũng xót thương cho một kiếp người.

    Người phụ nữ hàng chài chấp nhận những trận đòn vũ phu độc ác của người chồng không phải vì chị ngu tối. Cũng không phải vì chị có tội lỗi gì với chồng mà chị cam chịu, nhẫn nhục những trận đòn đó không chỉ vì trên thuyền cần một người đàn ông mà còn như một cách giúp người chồng vơi đi những u uất khổ sở chất chứa trong lòng. Đó là cách xử sự của một con người hiểu rõ nghĩa vụ nghĩa vụ của mình và gắng thực hiện cho xong, đâu đó là những nghĩa vụ và nghĩa vụ phi lí. Không chỉ thấu hiểu sót xa cho nỗi khổ của người chồng, người phụ nữ hàng chài còn mang một tự ti tội lỗi khi nghĩ rằng “giá tôi đẻ ít đi” hoặc “chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn”. nếu như Đẩu và Phùng đều ngạc nhiên và bất bình thay cho sự cam chịu nhẫn nhục của người vợ bị chồng hành tội thì khi hiểu được nguyên nhân của thái độ ấy, họ càng ngạc nhiên vì sự nhân hậu, vị tha của tấm lòng người phụ nữ hàng chài.

    Tình mẫu tử được người phụ nữ ý thức sâu sắc như một thiên tính đương nhiên của người phụ nữ “phụ nữ ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình”. Chính tình thương yêu sâu sắc với con đã khiến chị nhẫn nhục chịu đựng sự tàn nhẫn của người chồng vì muốn có một người đàn ông khỏe mạnh biết nghề cùng mình làm ăn nuôi nấng những con. Cũng vì sợ con tổn thương trước cảnh bạo lực gia đình, chị đã xin chồng đưa mình lên bờ mà đánh, sợ đứa con làm điều gì dại dột với bố nó, người phụ nữ hàng chài đã phải cắn răng gửi đứa con chị yêu thương nhất lên bờ sống với ông ngoại. Ở người phụ nữ thầm lặng ấy,” tình thương con cũng như nỗi đau, cũng như cái sự trầm lặng trong việc thấu hiểu những lẽ đời hình như mụ chẳng bao giờ để lộ rõ rệt ra mẫu mã”. Khi đứa con chứng kiến cảnh tàn nhẫn đó, người phụ nữ “mếu máo” gọi con rồi “chắp tay vái lấy vái để” ôm chầm nó, bởi chị sợ tình yêu thương, sự thơ ngây non nớt cùng lòng căm giận, u tối trong thằng bé sẽ hành động dại dột. Tiếng khóc của tình thương con và nỗi đau quặn thắt trong trái tim người mẹ, vừa đớn đau vừa xấu hổ nhục nhã. Chị đớn đau vì làm con tổn thương rồi mới đau cho bản thân mình. Khi nhắc tới những lúc hòa thuận trên thuyền “khuôn mặt xám xịt chợt ửng sáng lên như một nụ cười”. Đó là ánh sáng, là vẻ đẹp của tình mẫu tử, mọi niềm vui nỗi buồn đều xuất phát từ “vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con chúng nó được ăn ngon”. Thấp thoáng trong hình ảnh người phụ nữ hàng chài là bóng vía người phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, kiên cường chịu đựng, giàu lòng vị tha và đức hi sinh “biết hi sinh nhưng chẳng nhiều lời” – Tố Hữu.

    Người phụ nữ ấy đã để lại một ấn tượng sâu sắc để nhiều năm sau tồn tại, khi nhìn lại “bức ảnh Chiếc thuyền ngoài xa” bây giờ nghệ sĩ Phùng cũng thấy người phụ nữ bước ra khỏi tấm ảnh… hòa lẫn với đám đông. Đó là hình ảnh của những con người vô danh khốn khổ trong cuộc sống lầm lũi đời thường. Họ đã kiên cường vượt lên tất cả, không phải vì mình mà là vì những người thân yêu.

    Qua những nét khắc họa ấn tượng từ ngoại hình dáng vẻ tới cử chỉ, lời nói, hành động,…nhân vật người phụ nữ hàng chài đã trở thành một biểu tượng đầy sợ hãi giúp Nguyễn Minh Châu thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc cho truyện ngắn. Đó là niềm cảm thương và nỗi lo lắng cho số phận con người xấu số bị tù đày trong nghèo đói, khốn khổ, bạo lực. Đồng thời thể hiện niềm tin yêu trân trọng những phẩm chất tốt đẹp trong tâm hồn, tính cách những con người luôn sống cuộc sống lòng người nhân hậu, vị tha.

tìm hiểu nhân vật người phụ nữ hàng chài trong Chiếc thuyền ngoài xa – mẫu 4

   Nguyễn Minh Châu là nhà văn tiêu biểu, với phong cách sáng tác giàu tính biểu tượng trong nền văn học nước nhà. Những tác phẩm của ông luôn khiến người đọc phải trằn trọc, suy nghĩ rất nhiều. Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” là một câu chuyện giàu sức gợi như thế. Hình ảnh người phụ nữ làng chài là hình ảnh để lại trong lòng người nhiều sợ hãi, trằn trọc về cuộc sống của con người trong thời kì đổi mới.

    Chiếc thuyền ngoài xa kể về chuyến đi sáng tác của nhiếp ảnh Phùng khi tới với vùng đất biển này. Và từ chuyến đi này, anh đã trông thấy rất nhiều chiều của cuộc sống, nhiều góc khuất mà con người vẫn bỏ lỡ. Hình ảnh người phụ nữ là hình ảnh khiếp anh vừa khó hiểu, vừa băn khoăn, vừa đau xót. Có thể nói người làng chài là hình ảnh biểu tượng cho cuộc sống khó khăn, chịu nhiều thiệt thòi của người phụ nữ.

    tìm hiểu hình ảnh người phụ nữ trong “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu-Văn lớp 12

    Người phụ nữ hiện lên trong câu chuyện của nhiếp ảnh Phùng là một người đầy nhọc nhằn, lam lũ. Nguyễn Minh Châu với những nét vẽ tinh tế đã phác họa nên một hình ảnh giàu sức gợi “người phụ nữ chạc ngoài 40, một thân hình thân thuộc của đàn và vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt khuôn mặt mỏi mệt sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt, nhường như đang buồn ngủ”. Một người phụ nữ gây ấn tượng cho người đọc ngay từ những dòng trước tiên, đầy nhọc nhằn, đầy khổ sở và đầy thương cảm. Người phụ nữ ấy tiếp tục sợ hãi người đọc bằng chi tiết “tấm áo bạc phếch có miếng vá, bửa thân dưới ướt sũng”, đã phần nào gợi lên sự đau xót, khốn cùng. Giữa cảnh biển mênh mông lại xuất hiện một con người khiến người khác phải trằn trọc như thế này.

    Người phụ nữ ấy còn đầy vẻ cam chịu và nhẫn nhục khi người chồng hằn học và nhiếc mắng. Đôi mắt của chị như xuyên sâu vào trong lòng người đọc, nó sợ hãi cho tới khi gấp trang sách lại. Ánh mắt của chị đầy thương xót, đầy người nào oán và cũng đầy tình yêu thương dành cho những đứa con cho mình.

    Dọc theo hình trình đi tìm cái đẹp của nhiếp ảnh Phùng, người phụ nữ đã trở thành tâm điểm cho vẻ đẹp ấy. Một vẻ đẹp đầy sự khó khăn, nhọc nhằn và khổ đau. Hành động bạo lực của người chồng khiến chị cứ câm lặng, không người nào oán một lời.

    Và sự cam chịu ấy được lặp lại khi chị được gọi tới hầu tòa. Mặc dù “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng” nhưng người phụ nữ ấy vẫn “không rỉ răng một lời”. Hình dáng “mụ ngồi ghé vào mép ghế và cố thu người lại” càng khiến cho Phùng, cho Đẩu, và cho người đọc một nỗi sợ hãi khó bỏ. Tuy nhiên chỉ một lát, “người phụ nữ lại lúng túng và sợ sệt”. có nhẽ cuộc sống của chị quá nặng nề, quá thê lương trong những năm qua.

    Tình tiết người phụ nữ vái lạy để con trai không làm điều dại dột với bố, cũng như vái lạy quan tòa càng toát lên vẻ cam chịu, sự nhẫn nại, giàu đức hi sinh “Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”. Khi đi tới tận cùng của nỗi đau, khi có một trục đường giải thoát thì người phụ nữ ấy vẫn lặng lẽ và cam tâm chịu đựng khổ đau? Là vì điều gì? ko phải vì đức hi sinh của người mẹ đó sao?

    Lời tâm tình của người phụ nữ về cuộc sống, về người chồng, về những đứa con khiến người khác vừa thưỡng xót vừa khâm phục. Một người phụ nữ yêu chồng, thương chồng mặc dù bị chồng ngược đãi. Người phụ nữ yêu con, thương con vô điều kiện, không đòi hỏi bất cứ điều gì.

    Khi chị kể tới chi tiết “vui nhất là lúc được ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó đã ăn no” thì có nhẽ người đọc ứa nước mắt. Những đứa con là sức mạnh để chị có thể tồn tại, có thể sống sót và kiên cường tới bây giờ. Một người mẹ lặng lẽ hi sinh cuộc thế mình vì những đứa con, một người mẹ đã nhẫn nhục tất cả chỉ vì miếng cơm manh áo cho con. Một người mẹ nghèo, cố chấp nhưng yêu thương con vô bờ bến. cuộc thế của chị nhiều đau thương và nước mắt nhưng lại có biết bao nhiêu phẩm chất cao đẹp, đáng trân trọng.

    Không phải ngẫu nhiên tác giả chỉ gọi nhân vật là “người phụ nữ”, có nhẽ không phải chỉ một người phụ nữ duy nhất, mà có thể chúng ta còn bắt gặp rất nhiều người phụ nữ có chung hoàn cảnh ở bất cứ bãi biển xinh đẹp nào. Nguyễn Minh Châu đã vẽ lên một bức chân dung khiến cho người đọc phải suy ngẫm, phải trằn trọc về cuộc sống của rất nhiều người xung quanh chúng ta. Và cái hình ảnh mà nhiếp ảnh Phùng chụp được cũng như những gì anh nghĩ về người phụ nữ này là triết lí, một triết lí cho cái nhìn nhận đa chiều về cuộc sống này. Tấm lưng bạc phếch, ướt sũng của người phụ nữ này có nhẽ còn ảm ánh rất nhiều người nữa.

    Người phụ nữ đó chính là nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu, cũng như tác giả đã sử dụng cái tâm để vẽ lên hình ảnh đó. Hình ảnh người phụ nữ làng chài trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” đã gửi gắm nhiều thông điệp tới người đọc về cuộc sống, phẩm chất tốt đẹp của những người phụ nữ.

tìm hiểu nhân vật người phụ nữ hàng chài trong Chiếc thuyền ngoài xa – mẫu 5

     Trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của nhà văn Nguyễn Minh Châu, nhân vật để lại ấn tượng sâu sắc nhất cho người đọc là người phụ nữ làng chài – người phụ nữ vô danh với tấm lòng bao dung, vị tha, đức hi sinh .

     Truyện được kể lại qua lời của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng, một người lính vừa bước ra từ cuộc chiến tranh nhiều đau thương mất mát. Phùng được dịp trở về chiến trường xưa để chụp một bức tranh cảnh biển theo lời đề nghị của trưởng phòng. Tại đây anh đã phát hiện ra một bức tranh cảnh biển không tiền khoáng hậu: “trước mặt tôi là một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù..Tất cả quang cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới..toàn bộ quang cảnh từ đường nét tới ánh sáng đều hài hòa”. Cảnh đẹp ấy khiến cho người nghệ sĩ nhường như vừa “khám phá thấy cái chân lí của sự hoàn thiện”. Nhưng đằng sau chiếc thuyền đẹp như trong mơ ấy lại là một cảnh tượng phũ phàng: người chồng vũ phu, thô bạo hành tội người phụ nữ bằng những trận đòn thù, người phụ nữ nhẫn nhục chịu đựng . Phùng từ sung sướng tới ngạc nhiên, sững sờ sửng sốt. Nghịch cảnh ấy khiến lòng anh tan vỡ.

     Xuyên suốt toàn bộ câu chuyện, hầu như người đọc không hề được biết tới tên gọi của người phụ nữ tội nghiệp ấy, Nguyễn Minh Châu đã gọi một cách phiếm định: khi thì gọi là người phụ nữ hàng chài, lúc lại gọi mụ, khi thì gọi chị ta…. Không phải nhà văn “nghèo” tiếng nói tới độ không thể đặt cho chị một cái tên mà nhường như đằng sau cách gọi phiếm định ấy đã hé mở một cuộc thế ngang trái, một số phận bị vùi dập giữa cuộc sống bộn bề toan lo.

     nhường như cuộc sống chẳng có gì đáng nói nhưng trong chị lại chứa đựng nhiều điều kì diệu khiến người khác phải suy nghĩ. Người phụ nữ trạc ngoài 40, hình dáng thô kệch, rỗ mặt, khuôn mặt mỏi mệt sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và gợi ấn tượng người phụ nữ xấu xí, mỏi mệt nhường như đang buồn ngủ. Và cuộc thế nhọc nhằn, lam lũ, vất vả, khổ đau làm cho dung mạo chị đã xấu giờ trở nên thô kệch.

     Qua câu chuyện ở tòa án huyện người đọc hiểu hơn sự xấu số trong cuộc thế chị. nhường như mọi sự xấu số của cuộc thế đều trút cả lên chị, xấu, nghèo khổ, lam lũ, lại phải thường xuyên chịu những trận đòn roi của người chồng vũ phu, tổn thương, đau xót cho những con phải nhìn cảnh bố đánh mẹ… Cái xấu đã theo đuổi chị như định mệnh, suốt từ khi còn nhỏ. Có mang với một anh hàng chài, tới mua bả về đan lưới, rồi thành vợ chồng. Cuộc sống mưu sinh trên biển cực nhọc, vất vả, lam lũ, cập kênh. Gia đình nghèo lại còn đông con, thuyền thì chật,…

     Bị chồng thường xuyên đánh đập, hành tội: ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng. Cứ khi nào lão thấy khổ quá là lại xách chị ra đánh, như là để trút giận, với lời lẽ cay độc” Mày chết đi cho ông nhờ, chúng mày chết hết đi cho ông nhờ”. Khi bị đánh chị không hề kêu một tiếng, không chống trả, không tìm cách chạy trốn mà coi đó là một lẽ đương nhiên. Người phụ nữ ấy nhẫn nhục, cam chịu, thầm lặng chịu đựng mọi đớn đau tất cả vì những đứa con.

     Người phụ nữ đã nhẫn nhục, cam chịu. Chị không muốn đàn con phải nhìn thấy cảnh cha đánh mẹ. Chị xin chồng lên bờ mà đánh khi con lớn. Chị xót xa đớn đau khi phải chứng kiến cảnh thằng Phác đánh cha: “như một viên đạn bắn vào người đàn ông và bây giờ đang xuyên qua tâm hồn người phụ nữ, và làm rỏ xuống những dòng nước mắt…’

     Người phụ nữ ấy là người sâu sắc và thấu hiểu lẽ đời. Cái sự trầm lặng trong thấu hiểu lẽ đời nhường như chị chẳng bao giờ để lộ rõ rệt ra bên ngoài. Chị coi việc mình bị đánh đó như một phần đã rất thân thuộc của cuộc thế mình, chị chấp nhận, không kêu van, không trốn chạy. Khi được đề nghị viện trợ thì : “Xin những chú lượng tình cho cái sự lạc hậu”; “Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được nhưng đừng bắt con bỏ nó”.

     Chị ý thức được thiên chức của người phụ nữ :”Ông trời sinh ra người phụ nữ là để đẻ con và nuôi con cho tới khi lớn khôn”. Trong cuộc mưu sinh đầy cam go: thuyền ở xa biển, cần một người đàn ông khỏe mạnh, biết nghề. Sự cần thiết của việc có người đàn ông làm chỗ dựa, để chống chèo khi phong ba bão táp, cùng nuôi dạy những con: ” phụ nữ trên thuyền chúng tôi phải sống cho con, không thể sống cho mình như trên đất được”. Chị ” phải sống cho con chứ không thể sống cho mình”.

Xem thêm bài viết hay:  Bộ đề thi giữa học kì 2 môn tiếng Anh lớp 11 năm 2021 – 2022

     Có thấu hiểu được tương tự chúng ta mới hiểu hết tình cảm, tấm lòng của người phụ nữ xấu số. Bởi nếu như hiểu sự việc một cách đơn thuần chỉ cần yêu cầu người phụ nữ bỏ chồng là xong. Nhưng nhìn vấn đề một cách thấu suốt thì suy nghĩ và cách xử sự của người phụ nữ là không thể khác được. Nguyên nhân sâu xa của sự cam chịu chính là tình thương con vô bờ bến của chị.

     Người phụ nữ ấy còn là người giàu lòng vị tha. Chị thấu hiểu nguyên nhân vì sao chồng lại trở nên như thế. Chị hiểu được trước đây chồng vốn là anh con trai cục tính nhưng hiền lành, cũng nghĩ cho vợ con nhưng rồi cuộc sống mưu sinh khổ nhọc làm cho anh tha hóa. Có thể chúng ta không chấp nhận cho hành vi tội lỗi của ông nhưng chúng ta phần nào thông cảm cho ông.

     Đặc biệt ở người phụ nữ là chị cũng đã vẫn giữ trong tâm hồn mình ngọn lửa của hy vọng, của niềm tin để thắp lên hạnh phúc mỏng mạnh: Trong khổ đau triền miên, người phụ nữ ấy vẫn sàng lọc được những niềm hạnh phúc nhỏ nhoi : “..vui nhất là lúc ngồi nhìn con tôi chúng nó được ăn no”; “ trên chiếc thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hòa thuận, vui vẻ”.

     Đằng sau sự nhẫn nhục ấy là bản năng sinh tồn mãnh liệt và một tấm lòng yêu thương đáng thương. Người phụ nữ hàng chài vừa lam lũ, chất phác, có tình thương con vô bờ bến, vừa luôn mang nỗi đau, vừa có cái trầm lặng trong việc thấu hiểu những lẽ đời. Thấp thoáng trong người phụ nữ ấy là bóng vía của biết bao phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, giàu lòng vị tha và đức hi sinh.

     Gấp trang truyện lại sức đọc còn mãi sợ hãi bởi những nghi vấn: cuộc thế người phụ nữ ấy rồi sẽ kết thúc ra sau? Những đứa con tội nghiệp của bà có được cuộc sống hạnh phúc? Đó là những vấn đề nhà văn vẫn chưa đưa ra lời trả lời. Câu trả nằm trong cuộc sống, hành động của mỗi người chúng ta . Điều đó nói lên trị giá của tác phẩm và tầm vóc to lớn của nhà văn Nguyễn Minh Châu trong văn xuôi Việt Nam hiện đại.

tìm hiểu nhân vật người phụ nữ hàng chài trong Chiếc thuyền ngoài xa – mẫu 6

     Nguyễn Minh Châu là tác giả tiêu biểu của văn học Việt Nam sau 1975. Ông thành công với nhiều tác phẩm như: Người phụ nữ trên chuyến tàu tốc hành, Cỏ lau, Chiếc thuyền ngoài xa…Nhưng để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng người đọc là tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”.

     Trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của nhà văn Nguyễn Minh Châu, nhân vật để lại ấn tượng sâu sắc nhất cho người đọc là người phụ nữ làng chài – người phụ nữ vô danh với tấm lòng bao dung, vị tha, đức hi sinh.

     Truyện được kể lại qua lời của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng, một người lính vừa bước ra từ cuộc chiến tranh nhiều đau thương mất mát. Phùng được dịp trở về chiến trường xưa để chụp một bức tranh cảnh biển theo lời đề nghị của trưởng phòng. Tại đây anh đã phát hiện ra một bức tranh cảnh biển không tiền khoáng hậu: “trước mặt tôi là một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù..Tất cả quang cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới..toàn bộ quang cảnh từ đường nét tới ánh sáng đều hài hòa”. Cảnh đẹp ấy khiến cho người nghệ sĩ nhường như vừa “khám phá thấy cái chân lí của sự hoàn thiện”. Nhưng đằng sau chiếc thuyền đẹp như trong mơ ấy lại là một cảnh tượng phũ phàng: người chồng vũ phu, thô bạo hành tội người phụ nữ bằng những trận đòn thù, người phụ nữ nhẫn nhục chịu đựng. Phùng từ sung sướng tới ngạc nhiên, sững sờ sửng sốt. Nghịch cảnh ấy khiến lòng anh tan vỡ.

     Xuyên suốt toàn bộ câu chuyện, hầu như người đọc không hề được biết tới tên gọi của người phụ nữ tội nghiệp ấy, Nguyễn Minh Châu đã gọi một cách phiếm định: khi thì gọi là người phụ nữ hàng chài, lúc lại gọi mụ, khi thì gọi chị ta…. Không phải nhà văn “nghèo” tiếng nói tới độ không thể đặt cho chị một cái tên mà nhường như đằng sau cách gọi phiếm định ấy đã hé mở một cuộc thế ngang trái, một số phận bị vùi dập giữa cuộc sống bộn bề toan lo.

     nhường như cuộc sống chẳng có gì đáng nói nhưng trong chị lại chứa đựng nhiều điều kì diệu khiến người khác phải suy nghĩ. Người phụ nữ trạc ngoài 40, hình dáng thô kệch, rỗ mặt, khuôn mặt mỏi mệt sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và gợi ấn tượng người phụ nữ xấu xí, mỏi mệt nhường như đang buồn ngủ. Và cuộc thế nhọc nhằn, lam lũ, vất vả, khổ đau làm cho dung mạo chị đã xấu giờ trở nên thô kệch.

     Qua câu chuyện ở tòa án huyện người đọc hiểu hơn sự xấu số trong cuộc thế chị. nhường như mọi sự xấu số của cuộc thế đều trút cả lên chị, xấu, nghèo khổ, lam lũ, lại phải thường xuyên chịu những trận đòn roi của người chồng vũ phu, tổn thương, đau xót cho những con phải nhìn cảnh bố đánh mẹ… Cái xấu đã theo đuổi chị như định mệnh, suốt từ khi còn nhỏ. Có mang với một anh hàng chài, tới mua bả về đan lưới, rồi thành vợ chồng. Cuộc sống mưu sinh trên biển cực nhọc, vất vả, lam lũ, cập kênh. Gia đình nghèo lại còn đông con, thuyền thì chật,…

     Bị chồng thường xuyên đánh đập, hành tội: ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng. Cứ khi nào lão thấy khổ quá là lại xách chị ra đánh, như là để trút giận, với lời lẽ cay độc” Mày chết đi cho ông nhờ, chúng mày chết hết đi cho ông nhờ”. Khi bị đánh chị không hề kêu một tiếng, không chống trả, không tìm cách chạy trốn mà coi đó là một lẽ đương nhiên. Người phụ nữ ấy nhẫn nhục, cam chịu, thầm lặng chịu đựng mọi đớn đau tất cả vì những đứa con.

     Người phụ nữ đã nhẫn nhục, cam chịu. Chị không muốn đàn con phải nhìn thấy cảnh cha đánh mẹ. Chị xin chồng lên bờ mà đánh khi con lớn. Chị xót xa đớn đau khi phải chứng kiến cảnh thằng Phác đánh cha: “như một viên đạn bắn vào người đàn ông và bây giờ đang xuyên qua tâm hồn người phụ nữ, và làm rỏ xuống những dòng nước mắt…’

     Người phụ nữ ấy là người sâu sắc và thấu hiểu lẽ đời. Cái sự trầm lặng trong thấu hiểu lẽ đời nhường như chị chẳng bao giờ để lộ rõ rệt ra bên ngoài. Chị coi việc mình bị đánh đó như một phần đã rất thân thuộc của cuộc thế mình, chị chấp nhận, không kêu van, không trốn chạy. Khi được đề nghị viện trợ thì: “Xin những chú lượng tình cho cái sự lạc hậu”; “Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được nhưng đừng bắt con bỏ nó”.

     Chị ý thức được thiên chức của người phụ nữ:”Ông trời sinh ra người phụ nữ là để đẻ con và nuôi con cho tới khi lớn khôn”. Trong cuộc mưu sinh đầy cam go: thuyền ở xa biển, cần một người đàn ông khỏe mạnh, biết nghề. Sự cần thiết của việc có người đàn ông làm chỗ dựa, để chống chèo khi phong ba bão táp, cùng nuôi dạy những con: ” phụ nữ trên thuyền chúng tôi phải sống cho con, không thể sống cho mình như trên đất được”. Chị ” phải sống cho con chứ không thể sống cho mình”.

     Có thấu hiểu được tương tự chúng ta mới hiểu hết tình cảm, tấm lòng của người phụ nữ xấu số. Bởi nếu như hiểu sự việc một cách đơn thuần chỉ cần yêu cầu người phụ nữ bỏ chồng là xong. Nhưng nhìn vấn đề một cách thấu suốt thì suy nghĩ và cách xử sự của người phụ nữ là không thể khác được. Nguyên nhân sâu xa của sự cam chịu chính là tình thương con vô bờ bến của chị.

     Người phụ nữ ấy còn là người giàu lòng vị tha. Chị thấu hiểu nguyên nhân vì sao chồng lại trở nên như thế. Chị hiểu được trước đây chồng vốn là anh con trai cục tính nhưng hiền lành, cũng nghĩ cho vợ con nhưng rồi cuộc sống mưu sinh khổ nhọc làm cho anh tha hóa. Có thể chúng ta không chấp nhận cho hành vi tội lỗi của ông nhưng chúng ta phần nào thông cảm cho ông.

     Đặc biệt ở người phụ nữ là chị cũng đã vẫn giữ trong tâm hồn mình ngọn lửa của hy vọng, của niềm tin để thắp lên hạnh phúc mỏng mạnh: Trong khổ đau triền miên, người phụ nữ ấy vẫn sàng lọc được những niềm hạnh phúc nhỏ nhoi: “..vui nhất là lúc ngồi nhìn con tôi chúng nó được ăn no”; “ trên chiếc thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hòa thuận, vui vẻ”.

     Đằng sau sự nhẫn nhục ấy là bản năng sinh tồn mãnh liệt và một tấm lòng yêu thương đáng thương. Người phụ nữ hàng chài vừa lam lũ, chất phác, có tình thương con vô bờ bến, vừa luôn mang nỗi đau, vừa có cái trầm lặng trong việc thấu hiểu những lẽ đời. Thấp thoáng trong người phụ nữ ấy là bóng vía của biết bao phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, giàu lòng vị tha và đức hi sinh.

     Gấp trang truyện lại sức đọc còn mãi sợ hãi bởi những nghi vấn: cuộc thế người phụ nữ ấy rồi sẽ kết thúc ra sau? Những đứa con tội nghiệp của bà có được cuộc sống hạnh phúc? Đó là những vấn đề nhà văn vẫn chưa đưa ra lời trả lời. Câu trả nằm trong cuộc sống, hành động của mỗi người chúng ta. Điều đó nói lên trị giá của tác phẩm và tầm vóc to lớn của nhà văn Nguyễn Minh Châu trong văn xuôi Việt Nam hiện đại.

tìm hiểu nhân vật người phụ nữ hàng chài trong Chiếc thuyền ngoài xa – mẫu 7

     Trong cuộc sống phức tạp này, sự thực thỉnh thoảng không phải là điều ngay trước mắt mà sự thực là cái ẩn giấu bên trọng. Vì vậy muốn nhìn nhận đúng về cuộc sống về con người, chúng ta phải nhìn vào cái bên trong, bản tính thật, nhìn cuộc sống một cách đa diện. Giống như nhân vật người phụ nữ làng chài của Nguyễn Minh Châu trong truyện ngắn chiếc thuyền ngoài xa. Mang vẻ mẫu mã xấu xí, nhưng phẩm chất bên trong lại vô cùng tốt đẹp.

     Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu được viết vào năm 1983 và tới 1985 trong tập ” Bến Quê” tác phẩm là sản phẩm con người đời thương. Truyện kể về việc nghệ sĩ nhiếp ảnh phùng đi tới vùng biên này mong tìm được một bức ảnh cho bộ lịch. Sau sắp một tuần tìm kiếm, cuối cùng anh cũng tìm thấy một cảnh đắt trời cho ” Trước mắt tôi là một bức tranh mực tàu của danh họa thời cổ”. Nhưng vừa như phát hiện một chân lý của sự toàn thiện, khám phá thấy khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn thì bất thần anh phát hiện ra cảnh bạo lực gia đình. Với sự xuất hiện người phụ nữ làng chài gây ấn tượng lớn cho người độc và người nghe.

     Người phụ nữ làng chài, không được gọi tên. Chỉ được gọi bằng những đại từ “Người phụ nữ, bà…” Người phụ nữ chạc 40 tuổi, mang thân hình thân thuộc của người vùng biển cao lớn với những đường nét thô kệch, mặt rỗ. Người phụ nữ có ngoại hình thật xấu xí và phi thẩm mỹ. Trước kia, người phụ nữ này sống ở phố. Con một gia đình khá, nhưng không người nào lấy vì xấu. Chị đã có mang với anh làng chài và đã có cuộc sống hôn nhân với anh. Người khác nhìn vào nghĩ rằng đây là địa ngục vì ba ngày chị bị một trận nhỏ, năm ngày chị bị một trận lớn. Đúng vậy cuộc sống của chị thật đáng thương và khổ cực. Chị khổ cả về thể xác và ý thức, giống bao gia đình làng chài khác, gia đình chị đông con. Nhà thì nghèo túng. Thuyền thì bé, có những lần gia đình chị phải ăn xương rồng luộc chấm muối. Một cuộc sống không thể nào khổ hơn. Người ta nhiều khi khổ về vật chất, nhưng ý thức đầy đủ cũng là hạnh phúc “một túp lều tranh hai trai tim vàng”. Nhưng chị đâu được thế cuộc sống ý thức của chị còn khổ hơn. Người đàn ông xấu xí- chồng chị, một phần vì cuộc sống làm cho tính cách hắn hung bạo. Hắn sử dụng cách giải thoát sự giận dữ bằng cách đánh đập chị, chửa rửa chị và những con chị “Mày chết đi cho ông nhờ, chúng mày chết đi cho ông nhờ” Bị những trận đòn roi những cái quất mạnh của chồng tàn bạo, nhưng chị vẫn “Với vẻ mặt cam chịu đầy nhẫn nhục, không hề kêu một tiếng, không tìm cách chống trả, không tìm cách chạy trốn. Trận đòn roi chỉ ngừng lại khi thằng phác lao tới cứu mẹ và đánh lại bố” Cả hai mẹ con chỉ biết khóc. Người phụ nữ kể trước kia khi con còn nhỏ, hắn đánh chị trên thuyền. Sau khi con lớn, chị xin hắn đưa lên bờ rồi đánh. Chúng ta thấy rằng cuộc sống của chị thật khó khăn, chị chỉ biết cam chịu và thỉnh thoảng chính là sự ngu dốt.

     Nhưng thực chất bên trong còn nhiều điều mà mọi người chưa rõ. Khi chánh án đầu gợi ý li hôn, chị nhất định không chịu, van van xin không li hôn, nhận hết trách nhiệm , tội lỗi lên đầu mình. Vì sao ư? Vì chị là một người tinh thông lẽ đời, cho dù thất học. Chị hiểu rằng tên con thuyền này cần một người đàn ông chống chèo vượt qua. Phong ba và nuôi cho sấp con của chị cũng rất thông cảm cho chồng chị, xưa là một con người cực tình nhưng không bao giờ đánh vợ. Nhưng cũng vì cuộc sống khó khăn, làm cho người đàn ông đâm ra đánh vợ con , chị nhẫn nhục cam chịu, nhận hết trách nhiệm về bản thân mình. Nhận vì mình đẻ nhiều con mà cuộc sống khổ cực. Ngoài cam chịu, chấp nhận hi sinh, cuộc sống của chị còn có niềm vui đó là khi những con chị được ăn no, mặc ấm.

     Người mẹ nào cũng vậy, thấy những con mình hạnh phúc, thì bản thân hạnh phúc gấp một trăm lần rồi. Và thỉnh thoảng gia đình chị cũng hòa thuận, đầm ấm, vui vẻ chị còn có lòng tự trọng cao. Chị biết xấu hổ khi có người khác biết truyện mình bị đánh, đặc biệt là thằng phác. Người chị yêu thương nhất ” Cái thằng con từ tính khí tới mặt mũi giống như lột từ cái lão đàn ông đã hành tội mụ” Chị đã khóc khi phùng nhắc tới thằng phát. Chị thương con vô cùng, Chị cũng đem tới cho đẩu và phùng những bài học quý giá.

     Nguyễn Minh Châu đã thành công trong việc sử dụng nghệ thuật đối lập. Một bên là người phụ nữ xấu xí, phi thẩm mĩ, một bên là vẻ đáng thương, phẩm chất bên trong của con người đáng trân trọng. Người phụ nữ trong truyện là người có cốt cách bên trong, biết nhìn xa, thương đàn con nhỏ, giàu đức hi sinh, lòng vị tha, thương chồng, thương con tinh thông lẽ đời, sẵn sàng hi sinh bản thân về hạnh phúc, no ấm cho chồng, cho con. Đây chính là những phẩm chất cao quý của người phụ nữ Việt Nam.

     Qua hình ảnh người phụ nữ trong truyện chúng ta thấy người phụ nữ Việt Nam vẫn giữ được những nét đẹp truyền thống của người phụ nữ Á Đông. Dù vẻ ngoài không đẹp nhưng bên trong luôn có phẩm chất cao quý. Luôn nghĩ tới gia đình, hạnh phúc nhỏ của mình, sẵn sàng hi sinh mọi thứ để giữ gìn, săn sóc gia đình, hạnh phúc đó chính là con cái của mẹ. Người phụ nữ mang một lòng vị tha cao cả, Những khác biệt của người phụ nữ làng chài, phụ nữ ngày nay năng động hơn, làm chủ cuộc sống hơn, làm chủ được kinh tế.

     Họ không còn phải nhẫn nhục chịu trận đòn roi của chồng. Họ yêu thương chồng con, họ cần một người đàn ông chèo kéo mái ấm gia đình, là người yêu thương gia đình, yêu thương vợ con. Nhưng nếu như là người đàn ông vũ phu đánh đập vợ con, họ sẵn sàng báo cơ quan chức năng để bảo vệ quyền lợi hạnh phúc của gia đình mình. không những thế vẫn còn những người phụ nữ nhu mì, hèn nhắc, nhẫn nhục sẵn sàng chịu đựng đòn roi của chồng. Cố bấu víu lấy cái hạnh phúc chỉ có trong ảo tưởng, sống không có lập trường. Họ cần phải thay đổi cách sống, cách suy nghĩ tới giải pháp cuối cùng để giải thoát tìm hạnh phúc , cho mình thời cơ để tới với hạnh phúc thực thụ.

     Qua tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa đã cho ta thấy sự đối lập, vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ. Chúng ta cần phải nhìn cuộc sống và tâm hồn đa diện, phải tìm kiếm, khám phá cái bản tính bên trong, từ vẻ mẫu mã của người phụ nữ trong truyện yêu thương chồng con hi sinh cao cả.

tìm hiểu nhân vật người phụ nữ hàng chài trong Chiếc thuyền ngoài xa – mẫu 8

     Nguyễn Minh Châu là một trong số những nhà văn tiêu biểu với rất nhiều những tác phẩm được sáng tác trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Như lời đánh giá của nhà văn Nguyễn Khải ” Nguyễn Minh Châu là người kế tục xuất sắc những bậc thầy của nền văn xuôi Việt Nam và cũng là người mở đường rực rỡ cho những cây bút trẻ tài năng sau này”. Ông đã để cho lớp người đi sau một tác phẩm rất đặc sắc mang tên ” Chiếc thuyền ngoài xa” với nguồn cảm hứng vô tận và những bài học từ cuộc sống. Nhân vật trung tâm cho câu chuyện của ông chính là người phụ nữ hàng chài đã để lại trong lòng người đọc rất nhiều suy nghĩ, trằn trọc về những câu chuyện đời.

     Sau những bức tranh thiên nhiên vô cùng đẹp đẽ, lộng lẫy mà đôi mắt của nhà nhiếp ảnh phùng đã được dịp bắt gặp nhân dịp chuyến đi công việc ở vùng biển. Thế nhưng, phía sau những ánh sáng chói lòa, lung linh ấy là những góc khuất mà con người bỏ lỡ. Hình ảnh của người phụ nữ hiện lên hoàn toàn trái ngược với vẻ đẹp của thiên nhiên nơi đây, Đó là một người phụ nữ trạc ngoài bốn mươi tuổi, tác giả cũng chẳng biết tên tuổi mà đặt một ngôi “mụ”, ” người phụ nữ hàng chài” như để ám chỉ nơi đây, có biết bao nhiêu người phụ nữ cũng có chung hoàn cảnh như mụ.

     Sau vài nét gợi tả, hình ảnh của người phụ nữ với ” một thân hình thân thuộc của phụ nữ vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt khuôn mặt mỏi mệt sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt, nhường như đang buồn ngủ”. Chắc hẳn, những vết rỗ khuôn mặt mụ đều từ gánh nặng của công việc, của nắng mưa gió bão miền biển hẳn lên trên khuôn mặt ấy. Một người lao động lam lũ, chịu thương chịu thương chịu khó nhưng cái nghèo vẫn bủa vây lấy gia đình của mụ. Sự nghèo khổ ấy còn hiện lên trên “tấm áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng”. Từ cách hành xử, đi đứng tới ” tìm tới một góc tường để ngồi” càng làm cho mụ trở nên đáng thương tới tội nghiệp. Một con người dám vượt qua phong ba bão táp trên vùng đại dương mênh mông, nhưng lại trở nên tự ti, tự ti khi đối diện với con người.

     Không chỉ ngừng lại ở đó, tác giả đã lột tả thật sâu sắc, chân thật cả những tính cách con người mụ. Một người phụ nữ, một người vợ luôn nhẫn nhục, cam chịu tiêu biểu trong xã hội Việt nam. Khi chứng kiến cảnh người đàn ông to lớn, thô kệch giáng những cú đánh mạnh mẽ vào tấm thân yếu ớt của người phụ nữ ấy, tới một người đàn ông như Phùng cũng không thể nhẫn nhịn nổi. Vậy nhưng, người phụ nữ ấy vẫn cam chịu biết bao lời hằn học, nhiếc mắng. Đôi mắt của chị hắt lên một trục đường tối đen không tìm thấy ánh sáng nào trong cuộc thế chị. có nhẽ, mụ đã quá quen và chấp nhận cuộc thế của mụ sẽ phải chịu đựng cảnh ” ba ngày một trận nhẹ,năm ngày một trận nặng”.

Xem thêm bài viết hay:  Viết đơn xin gia nhập đội tự nguyện trợ giúp nạn nhân chất độc màu da cam của địa phương

     Những đớn đau về thể xác của chị không thể nào sánh với những nỗi đớn đau, dày vò về ý thức khi chị lo lắng cho con cái sẽ bị tổn thương khi phải chứng kiến những cảnh đớn đau ấy. Thằng con trai của chị thương mẹ , nhăm nhăm con dao trong tay nhưng người mẹ ấy đã “chắp tay vái mấy đứa con để nó đừng phạm phải một tội ác trái thường đạo lí”. Tuy nghèo, tuy khổ nhưng chị vẫn biết đạo lí trong đời, chị không muốn con của chị phải đi theo những vết xe đổ nghèo hèn mà cuộc thế bố mẹ nó đang phải trải qua. Lòng chị cũng đớn đau, buồn tủi vô cùng khi cái nghèo đẩy cả nhà chị vào cái vòng quẩn quanh nghèo đói. Những tháng ngày ăn xương rồng luộc chấm muối, bữa đói bữa no vẫn luôn hiện hữu, túc trực trên chiếc thuyền chật chội, mục nát của gia đình chị.

     Tưởng chừng với dáng người thô kệch ấy sẽ chẳng biết đâu là lễ phép đạo lý, thế nhưng với những điều mà chị đã từng trải, vẻ đẹp của tâm hồn của người phụ nữ ấy càng trở nên sâu sắc. Khi bị đưa về tòa án, Phùng và Đẩu đã muốn giúp chị giải thoát khỏi cuộc ly hôn ấy nhưng chị đã xin quan tòa rằng ” quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”. tới tận cùng nỗi đau, khi đưa cho chị một sự lựa lựa chọn giải thoát nhưng chị lại chối bỏ. Chắc hẳn, người đọc sẽ cảm thấy thật khó hiểu và nực cười cho người bà dại dột ấy. Thế nhưng, sau những lời tâm tình của chị, người ta mới vỡ lẽ và cảm thấy khâm phục người phụ nữ ấy. Chị vẫn luôn dành cho chồng những lời ngợi khen, chị biết chồng chị là người hiền lành cục tính, nhưng cái nghèo đã khiến anh ta trở thành một con người vũ phu, cục súc. Hình ảnh của người đàn ông cũng có biết bao điểm chung như những nhân vật Chí phèo của Nam cao hay nhân vật Hộ trong tác phẩm Đời thừa vậy. Chị có cái nhìn sâu xa, thấu hiểu lẽ đời, lòng người, khác hẳn với cái nhìn của Đẩu và Phùng. Người phụ nữ ấy biết rõ rằng : thân gái dặm trường, họ cần một người đàn ông để chèo lái con thuyền, con cái của họ cần có một người cha để dựa dẫm. Dù cho họ có vũ phu, cục súc tới nhường nào thì đó vẫn là một người đàn ông mà họ cần. Họ nghèo nên thiết nghị, họ không có quyền đòi hỏi một người đàn ông sang giàu, có học vấn. Trong khi đường lối của Đảng trước và sau cách mệnh luôn hướng tới bảo vệ nhân quyền cho mọi người, tạo điều kiện cho nhân dân được lợi cuộc sống no ấm, hạnh phúc. Thế nhưng, tại nơi đây những con người lênh đênh trên bốn bể là nước, họ vẫn chịu những gánh nặng to lớn của miếng cơm manh áo hàng ngày. Sự hi sinh, thấu hiểu cuộc thế của chị càng khiến người đọc cảm thấy xót xa cho một người phụ nữ.

     Đằng sau việc trọng tình nghĩa với người chồng của chị, tình mẫu tử cũng của chị cũng thật đáng ngưỡng mộ. Sợ con tổn thương mà chị đã xin chồng đưa mình lên bờ mà đánh, niềm vui của chị thật giản đơn khi ” vui nhất là lúc được ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó đã ăn no”. Những đứa con là ngọn nguồn sức mạnh để chị sống và tồn tại. ý chí quật cường của chị được bồi đắp nhờ tình thương con, chị chấp nhận hi sinh cuộc thế chị để mong cho con mình có được cuộc sống an nhiên hơn. Thấp thoáng trong hình ảnh người phụ nữ làng chài là những đức tính của biết bao người phụ nữ Việt nam luôn yêu chồng thương con, giàu đức hi sinh và lòng vị tha.

     Qua tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa, chỉ qua một nhân vật người phụ nữ trong truyện mà người đọc như được nhìn thấy cuộc thế của biết bao nhiêu người phụ nữ Việt nam trong mọi thời đại. Tấm lưng bạc phếch, ánh mắt cam chịu hay nụ cười hạnh phúc khi nhìn những đứa con có nhẽ sẽ còn sợ hãi rất lâu trong tâm trí độc giả. Tác giả đã gửi gắm không chỉ niềm cảm thương, xót xa cho số phận con người bị đánh đập, nghèo đói mà còn thể hiện niềm tự hào, trân trọng vì những vẻ đẹp tâm hồn không gì có thể làm lấm bùn, thui chột.

tìm hiểu nhân vật người phụ nữ hàng chài trong Chiếc thuyền ngoài xa – mẫu 9

     Nguyễn Minh Châu là một là ngòi bút sử thi có thiên hướng trữ tình lãng mạn. Từ sau 1975, ông chuyển hẳn sang cảm hứng thế sự với những vấn đề đạo đức và triết lí nhân sinh. Ông được coi là một trong những cây bút tiên phong của văn học Việt Nam thời kì đổi mới. “Chiếc thuyền ngoài xa” là một trong những tác phẩm tiêu biểu phải kể tới của thi sĩ. Hình ảnh người phụ nữ làng chài là hình ảnh để lại trong lòng người nhiều sợ hãi, trằn trọc về cuộc sống của con người trong thời kì đổi mới.

     Truyện được kể lại qua lời kể của nhân vật Phùng, một người lính vừa bước ra từ cuộc chiến tranh nhiều đau thương mất mát. Theo lời đề nghị của trưởng phòng, Phùng trở về chiến trường xưa để chụp một tấm hình cảnh thuyền biển cho bộ lịch Tết. Tại đây, anh đã phát hiện ra một bức tranh để chụp một tấm hình cảnh thuyền biển cho bộ lịch Tết. Tại đây , anh đã phát hiện ra một bức tranh thuyền biển lúc rạng đông đẹp như tranh mực Tàu của một danh họa thời cổ. Nhưng ngang trái thay, đang ngây ngất với cảm giác hạnh phúc thì Phùng phải chứng kiến một cảnh tượng phũ phàng. Đó là cảnh người chồng đánh vợ một cách thô bạo, còn người vợ thì nhẫn nhục chịu đựng một cách khó hiểu. Phùng từ ngây ngất sung sướng tới ngạc nhiên, sững sờ. Có thể nói, nhà văn đã ra tình huống truyện độc đáo và từ tình huống này mà nhân vật người phụ nữ dần hé lộ số phận và tính cách.

     Tác giả chỉ gọi nhân vật của mình là người phụ nữ một cách phiếm định. Phải chăng ông muốn nói hộ bao nhiêu người phụ nữ vô danh ở vùng biển này? Người phụ nữ trong truyện trạc ngoài bốn mươi, cùng chồng đánh cá bằng thuyền lưới vó ở một vùng biển miền trung.

     Người phụ nữ có thân hình “cao lớn với những nét thô kệch”, “rỗ mặt”, lúc nào cũng xuất hiện với khuôn mặt “mỏi mệt”, “tái ngắt và nhường như đang buồn ngủ”. Cái vẻ ấy gợi ấn tượng về một cuộc thế nhọc nhằn, lam lũ, quanh năm phải chống chọi với cái nghèo, cái đói, với thiên tai khắc nghiệt. Ngay từ phương thức bên ngoài của nhân vật, tác giả đã dự đoán về một số phận lắm ngang trái, nghịch cảnh. Khắc họa về hình ảnh người phụ nữ , Nguyễn Minh Châu tập trung ở khuôn mặt và đôi mắt – nơi ẩn giấu những bí mật của cuộc thế.Ở người phụ nữ xấu xí, rỗ mặt ấy có một đôi mắt thật lạ. Đôi mắt chính là cuộc thế chị. Đôi mắt của một cuộc thế không bình lặng. Đôi mắt “ngước nhìn ra ngoài mặt phá nước chỗ chiếc thuyền đậu một thoáng rồi…đưa cặp mắt nhìn xuống chân’ đầy vẻ cam chịu. Đôi mắt đã từng “nhìn thẳng vào chúng tôi, tuần tự từng người một”, nói những lời đâu phải dễ nghe sau những giây phút “sợ sệt, lúng túng,rón rén tới ngồi ghé vào chiếc ghế và cố thu người lại”. người phụ nữ xuất hiện với khuôn mặt mỏi mệt, tái ngắt vì thiếu ngủ, vì lao lực, khuôn mặt chứa đầy những giọt nước mắt trong những vết rỗ dằng dịt, khuôn mặt cúi xuống nhẫn nhục khi nói về đời mình, khuôn mặt ấy còn sợ hãi Phùng mãi sau này.

     Nguyễn Minh Châu khắc họa đậm nét những chi tiết ngoại hình nhằm giúp người đọc hình dung được cuộc sống khổ đau, xấu số của nhân vật. Bà phải chịu đựng về cả nỗi đau thể xác lẫn ý thức. Thường xuyên bị chồng đánh nhưng người phụ nữ ấy vẫn quyết gắn bó với người chồng vũ phu. Trong tiềm thức bà luôn lo sợ những con sẽ bị tổn thương, luôn phải che giấu những nỗi đau của mình nhưng những con vẫn khiến bà thực sự đau lòng vì “bà cảm thấy đớn đau – vừa đớn đau vừa vô cùng xấu hổ , nhục nhã”. Bà đau vì không tránh được cho con khỏi bị tổn thương do bạo hành gia đình. Bà làm tương tự như là để tạ tội với những con vì không thể cho nó một mái ấm hạnh phúc. Bà hiểu được nguyên nhân sự nghèo khổ của gia đình là do đông con, chồng phải trốn lính, thuyền chật, cuộc sống cập kênh. Bà hiểu sâu sắc thiên chức làm mẹ, hiểu được bản tính của chồng. Theo bà, ông ta trở nên thô bạo tương tự là do hoàn cảnh quá nghèo, quá khổ. Người chồng vũ phu kia chỉ là nạn nhân của hoàn cảnh sống khắc nghiệt.

     Tóm lại, nhân vật người phụ nữ hàng chài là một người mẹ giàu đức hi sinh và thấu hiểu lẽ đời.Một phụ nữ vẫn giữ được vẻ đẹp truyền thống của người Á Đông là biết nhẫn nhịn, biết hi sinh bản thân vì gia đình, chồng con. Qua nhân vật người phụ nữ hàng chài, tác giả muốn gửi tới người đọc những suy ngẫm sâu sắc về cuộc thế, về nghệ thuật. “Chiếc thuyền ngoài xa” mang tới một bài học đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc sống con người. Đó là cái nhìn đa chiều , ở những cự li khác nhau, để phát hiện ra bản tính sau vẻ ngoài của cuộc sống và con người. Phải chăng sau câu chuyện rất buồn này,trái tim nhân hậu của Nguyễn Minh Châu vẫn rét mướt niềm tin yêu cuốc ông, trân trọng vẻ đẹp của tuổi thơ, của tình mẫu tử , sự can đảm và tấm lòng bao dung của người phụ nữ? Đó không phải là vẻ đẹp chói chang, hào hùng mà là những hạt ngọc khuất lấp, lẫn trong cái lấm láp, lam lũ của đời thường.

tìm hiểu nhân vật người phụ nữ hàng chài trong Chiếc thuyền ngoài xa – mẫu 10

     nếu như những nhân vật trong những tác phẩm của Nguyễn Minh Châu thời kì trước năm 1975 được nhìn nhận từ khía cạnh tiêu chuẩn đạo đức cách mệnh, sự cống hiến đối với quốc gia thì sau năm 1975, ông nhìn nhận nhân vật của mình ở phương diện đời tư, thế sự. vượt bậc trong số đó là nhân vật người phụ nữ hàng chài trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” được Nguyễn Minh Châu sáng tác năm 1987.

     Người phụ nữ ấy là nhân vật chính trong quang cảnh rạng đông ở nơi đầm phá miền Trung – chiến trường cũ của người nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng thời kháng chiến chống Mĩ. nếu như không vì Phùng muốn “thu vào tờ lịch tháng bảy năm sau cảnh thuyền đánh cá thu lưới vào lúc rạng đông” thì có nhẽ anh sẽ không bắt gặp được người phụ nữ này và cũng sẽ không có thời cơ để vỡ lẽ ra nhiều điều từ thực tế cuộc sống và nghệ thuật. Người phụ nữ không được Nguyễn Minh Châu gọi bằng một tên riêng nào cả, ông chỉ gọi người phụ nữ lam lũ ấy bằng những đại từ phiếm chỉ như “người phụ nữ”, “mụ”. Phải chăng đây là dụng ý của tác giả vì chị chỉ là một trong vô số những người phụ nữ làng chài ở những vùng biển khác cũng vô danh, nhỏ bé và có một cuộc thế thông thường giống như họ? Phải chăng cũng vì không có một tên gọi cụ thể mà hình tượng nhân vật lại có sức khái quát lớn?

     Chị là người phụ nữ “trạc ngoài bốn mươi, một thân hình thân thuộc của người phụ nữ vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch”. Chị bị rỗ mặt, “khuôn mặt mỏi mệt sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và nhường như đang buồn ngủ”. Tấm lưng áo của chị đã “bạc phếch và rách rưới”. Với những chi tiết trình bày ngoại hình tương tự, Nguyễn Minh Châu đã khiến độc giả hình dung ra một người phụ nữ lam lũ, vất vả, chật vật để đối mặt với cuộc sống mưu sinh trên biển đầy nguy hiểm.

     nhường như số phận đã đẩy hết xấu số lên con người chị nhưng chị lại cam tâm chịu đựng mà không hề có một lời trách móc. Ngoại hình chị xấu xí, vì vậy mà đàn ông trong phố không người nào lấy chị rồi chị “có mang với một anh con trai một nhà hàng chài giữa phá hay tới nhà tôi mua bả về đan lưới”. Người đàn ông chị lấy khi ấy là một người “cục tính nhưng hiền lành” và không bao giờ đánh đập vợ. Nhưng có nhẽ vì sự khắc nghiệt của cuộc sống mưu sinh mà anh ta trở nên vũ phu khiến chị thường xuyên phải chịu những trận đòn roi tàn nhẫn: “Ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”. Hành động của người chồng khiến vị chánh án Đẩu phải gay gắt thốt lên rằng: “Cả nước không có một người chồng nào như hắn.Tôi chưa hỏi tội của hắn mà tôi chỉ muốn bảo ngay với chị: Chị không sống nổi với cái lão đàn ông vũ phu ấy đâu”. Chị đã phải chịu đựng bao nhiêu cơn thịnh nộ từ người chồng, chịu đựng bao sự khổ cực, cập kênh của cuộc sống hàng chài mà không bao giờ phản kháng. Chị cam chịu số phận bởi chị là một người vị tha, bao dung và hiểu chuyện.

     Người phụ nữ hàng chài là người thấu hiểu chồng mình hơn người nào hết. Chị hiểu vì sao người đàn ông hiền lành trước đây lại trở nên nóng tính, bạo lực tới tương tự. Nguyên nhân cũng là do sự đói khổ, cập kênh của cuộc sống thường nhật. Cuộc sống ấy khổ cực nhường nào khi “vào những vụ bắc, ông trời làm biển động suốt hàng tháng, cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối”. Là một trụ cột vững chắc cho gia đình, là một người chồng, người cha nên có người đàn ông nào lại dửng dưng vô cảm trước sự đói khổ của vợ con mình. Anh ta đánh vợ không phải vì thù ghét vợ mà là vì anh ta bế tắc, quẫn trước cuộc thế khi không thể lo cho gia đình một cuộc sống sung túc. Vì không có cách nào khác để giải tỏa những tâm trạng tiêu cực đó nên “bất kể khi nào thấy khổ quá” là anh xách vợ ra đánh. Khi chánh án Đẩu và Phùng khuyên người phụ nữ nên bỏ chồng thì chị đã “chắp tay lại vái lia lịa”: “Con lạy quý tòa… Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”. Rồi chị đã bào chữa cho chồng bằng những lí lẽ xác đáng và tự nhận hết lỗi lầm về mình: “Giá tôi đẻ ít đi, hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn”; “nhưng cái lỗi chính là đám phụ nữ ở thuyền đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật”. Phải chịu những trận đòn roi và sự đánh đập của chồng có người phụ nữ nào không đớn đau nhưng người phụ nữ hàng chài ý thức được nguyên nhân dẫn tới hành động bạo lực của người chồng nên chị không hề oán trách, căm giận mà còn tận tình bao dung, vị tha: “Người phụ nữ với một vẻ cam chịu đầy nhẫn nhục, không hề kêu một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách chạy trốn”.

     Không chỉ vậy, người phụ nữ hàng chài còn là một người mẹ tận tình thương con và giàu đức hi sinh. Chị muốn những con của chị được đón nhận tình yêu thương của cả bố và mẹ. Chị muốn những con được lớn lên trong không khí hòa thuận, vui vẻ của gia đình nên chị đã xin chồng lên bờ đánh để những con không phải chứng kiến cảnh bạo lực gia đình từ chính người bố của mình. những con còn nhỏ, chúng chưa thể hiểu được nguyên nhân dẫn tới sự bạo lực của bố nên có thể sẽ căm thù, oán giận bố. Chị xin lên bờ đánh là để tránh cho những con những sự tổn thương về mặt ý thức. Khi thằng Phác trông thấy bố đang sử dụng chiếc thắt lưng “quật túi bụi” vào lưng mẹ thì nó đã “như một viên đạn trên phố lao tới đích đã nhắm”, “nhảy xổ vào người đàn ông” giằng lấy chiếc thắt lưng rồi “lảo đảo ngã dúi xuống cát” vì hai cái tát của bố. Người phụ nữ đã “ôm chầm lấy nó rồi lại buông ra, chắp tay vái lấy vái để, rồi lại ôm chầm lấy”. Chị không muốn Phác căm thù bố và cũng không muốn nó trở nên bạo lực như bố. Đó là đứa con mà chị yêu nhất nhưng người phụ nữ phải gửi nó lên rừng với ông ngoại chỉ vì “sợ thằng bé có thể làm điều gì dại dột đối với bố nó”.

     Người phụ nữ ấy nhất quyết không bỏ chồng vì “đám phụ nữ hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chống chèo khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con nhà nào cũng trên dưới chục đứa”. Chị sống vì con nhiều hơn là sống cho mình. Vì con mà chị có thể nhẫn nhục, cam chịu, vì con mà chị tiếp tục sống với người đàn ông vũ phu ấy chứ không tìm cách giải thoát cho mình. những con chính là nguồn vui, nguồn hạnh phúc của chị bởi đối với chị: “Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no”. Đối với một người mẹ, dù bản thân có phải chịu đựng bao nhiêu sự khốn khổ thì họ vẫn luôn muốn những con có một cuộc sống no đủ.

     Tuy là người phụ nữ quê mùa nhưng chị lại rất hiểu chuyện. Chị hiểu được lòng tốt của Phùng và Đẩu nhưng đã từ chối lòng tốt ấy: “Lòng những chú tốt nhưng những chú đâu có phải là người làm ăn…cho nên những chú đâu có hiểu được cái việc của những người làm ăn lam lũ, nặng nhọc…”; “Là bởi vì những chú không phải là phụ nữ, chưa bao giờ những chú biết thế nào là nỗi vất vả của người phụ nữ trên một chiếc thuyền không có đàn ông”. Những lời giãi bày của chị đã khiến vị chánh án và người nhiếp ảnh hiểu ra nhiều điều. Cuộc sống vốn không hề đơn thuần như cách mà chúng ta vẫn nghĩ và có những lí thuyết sách vở không thể nào khắc phục một cách thấu đáo ở trong thực tế. Phùng và Đẩu khuyên người phụ nữ li hôn nhưng họ lại không hiểu được những nỗi khổ tâm của chị, không hiểu được tình nghĩa vợ chồng chung sống với nhau bao lâu nay của chị.

     Nguyễn Minh Châu đã xây dựng nhân vật người phụ nữ hàng chài với sự đối lập về ngoại hình và tính cách, giữa sự xấu số chị phải gánh chịu với tấm lòng vị tha, bao dung và đức hi sinh của chị. Người phụ nữ ấy đã mang tới cho tất cả độc giả chúng ta một cách nhìn nhận thực tế và bao quát hơn về con người và cuộc thế. Vẻ đẹp của của chị được ẩn sâu bên trong vẻ mẫu mã rách rưới, cam chịu. Và tác giả đã “đi tìm hạt ngọc ẩn sâu trong tâm hồn con người” để phát hiện và trân trọng vẻ đẹp tâm hồn, tư cách trong những nhân vật của mình.

     Nguyễn Minh Châu đã khắc họa thành người lao động vật người phụ nữ hàng chài. Nhân vật này đã giúp độc giả cảm nhận được sự thấu hiểu, sự đồng cảm và tình thương mà tác giả dành cho nhân vật của mình. từ đó, Nguyễn Minh Châu cũng phần nào khẳng định mình xứng đáng với vị trí là một trong những “người mở đường đầy tài hoa và tinh nhanh” (Nguyên Ngọc) trong công cuộc đổi mới nền văn học Việt Nam.

Văn mẫu lớp 12

Bản quyền bài viết thuộc trường THPT thành Phố Sóc Trăng. Mọi hành vi sao chép đều là gian lận!

Nguồn chia sẻ: Trường Cmm.edu.vn (thptsoctrang.edu.vn)

Viết một bình luận