Đóng vai người cháu kể lại câu chuyện bếp lửa (14 mẫu)

Cùng Cmm.edu.vn tìm hiểu một số bài văn mẫu đóng vai người cháu kể lại câu chuyện bếp lửa.

Đóng vai người cháu kể lại câu chuyện Bếp lửa được Cmm.edu.vn tổng hợp và đăng tải. Bài thơ bếp lửa được thi sĩ sáng tác khi nhớ lại kỉ niệm bên người bà của mình. Hình ảnh bếp lửa trong bài thơ là hình ảnh vượt bậc, giàu ý nghĩa, khơi gợi nhiều suy nghĩ. Cùng Cmm.edu.vn tham khảo một số bài văn mẫu đóng vai người cháu kể lại câu chuyện bếp lửa nhé.

Đóng vai người cháu kể lại câu chuyện bếp lửa

Dàn ý đóng vai người cháu kể lại câu chuyện bếp lửa

Mẫu dàn ý 1

I – Mở bài:

Giới thiệu về mình (Nhân vật trữ tình trong bài thơ)

II – Thân bài:

Nhân vật trữ tình kể theo mạch kể riêng của mình nhưng đảm bảo được mạch xúc cảm của bài thơ là:

Bài thơ được mở ra với hình ảnh bếp lửa, từ đó gợi về những kỷ niệm tuổi thơ sống bên bà tám năm ròng rã, làm hiện lên hình ảnh bà với sự săn sóc, toan lo, vất vả và tình yêu thương trìu mến dành cho đứa cháu. Từ kỷ niệm, đứa cháu nay đã trưởng thành suy ngẫm và thấu hiểu về thế cục bà, về lẽ sống giản dị mà cao qúy của bà. Cuối cùng người cháu muốn gửi niềm thương, nhớ mong về bà khi ở xa bà.. Ví dụ hình thành mạch kể riêng:

* Cách 1:

1 – Hình ảnh bếp lửa khơi nguồn cho dòng hồi ức, xúc cảm về bà.

2 – hồi ức những kỷ niệm tuổi thơ sống bên bà và hình ảnh bà gắn liền với hình ảnh bếp lửa.

3 – Suy ngẫm về bà và thế cục bà.

4 – Nỗi niềm của cháu khi đã trưởng thành, đi xa về bà

* Cách 2:

1 – Hình ảnh bếp lửa đã gợi lên trong tâm trí tôi, quá khứ hiện về như một cuộn phim quay chậm.

2 – Tuổi thơ của tôi phải sống trong chiến tranh đầy bom đạn dữ dội.

3 – Tuổi thơ của tôi với bao niềm vui sướng, hạnh phúc được ở bên bà.

4 – Đóng vai người cháu, kể lại nội dung bài thơ Bếp Lửa – Bằng Việt. Yêu cầu có sử dụng yếu tố nghị luận, độc thoại nội tâm – Từ kỷ niệm tuổi thơ ở bên bà, tôi lại nhớ về bà và hình ảnh bếp lửa.

5 – Giờ đây tôi đã trưởng thành, nhưng tôi không thể nào quên hình ảnh bà gắn với hình ảnh bếp lửa

III – Kết bài:

Niềm mong ước, suy nghĩ của nhân vật trữ tình từ hình ảnh bà và bếp lửa

dong vai nguoi chau ke lai cau chuyen bep lua 2 1

Mẫu dàn ý 2

I- Mở bài: Giới thiệu về mình (Nhân vật người cháu trong bài thơ)

Ví dụ: Tôi là một sinh viên đang du học ở nước ngoài. Ở phương trời Tây, tuyết thường rơi trắng xóa vào buổi sáng. Cái lạnh ở nơi đây làm tôi luôn nhớ tới bếp lửa bà thổi lởn vởn trong sương sớm. Bếp lửa toả sáng bập bùng, in bóng bà tôi trên vách bếp. Ôi hình ảnh bếp lửa gắn liền với những kỉ niệm với bà, hình ảnh đã khắc sâu trong tâm trí tôi.

II- Thân bài : Kể chuyện

1- Hình ảnh bếp lửa đã gợi lên trong tâm trí

Tuổi thơ của tôi được sống bên bà, cùng bà nhóm lửa là tuổi thơ với nhiều gian khổ, thiếu thốn, nhọc nhằn. Lên bốn tuổi tôi đã quen mùi khói. Năm 1945 nạn đói kinh khủng xảy ra do chính sách thống trị của Thực dân Pháp nên gia đình tôi cũng đói mòn , đói mỏi. Cha tôi đi đánh xe ngựa chở hàng thuê. Xóm làng điêu tàn ngập trong mùi khói , nhĩ lại tới giờ sống mũi còn cay, nước mắt cứ chực ứa ra.

2- Tuổi thơ của tôi phải sống trong chiến tranh đầy bom đạn dữ dội.

Năm ấy, giặc càn vào làng đốt nhà cháy tàn, cháy lụi. xóm làng phải giúp bà cháu tôi dững lại túp lều tranh để che mưa nắng. Bố mẹ tôi đi công việc bận không về, bà tôi dặn nếu như có viết thư cho bố thì đừng kể này kể nọ, cứ bảo rằng ở nhà mọi việc bình yên để bố mẹ yên tâm công việc. Chao ôi! tôi hiểu lòng bà và càng yêu quý bà hơn.

3 – Kỉ niệm tuổi thơ ở bên bà

Suốt tám năm ròng rã, tôi ở cùng bà, sớm sớm chiều chiều cùng bà nhóm lửa. Bà kể cho chúng tôi nghe những ngày phiêu bạt ở Huế. Bà dạy tôi điều hay lẽ phải. Bà là người thầy trước tiên trong thế cục tôi . Tôi lớn lên trong sự săn sóc , dạy bảo của bà. Mỗi lần nghe tiếng chim tu hú kêu, lòng tôi trỗi dậy những hoài niệm nhớ mong, muốn được ở sắp bà, sợ phải xa bà.

4 – Từ kỉ niệm tuổi thơ ở bên bà, tôi lại nhớ về bà và hình ảnh bếp lửa.

Hình ảnh bà tôi mái tóc bạc phơ, thân hình còm cõi luôn đi đôi với bếp lửa rực hồng . Hình ảnh bà luôn gắn liền với hình ảnh bếp lửa. Bếp lửa do tay bà nhóm lên tỏa khá ấm khắp căn lều nhỏ và sưởi ấm lòng tôi, khơi dậy ở tôi những tâm tình của thời thơ dại. Bà là người phụ nữ Việt Nam muôn thuở với vẻ đẹp tảo tần , nhẫn nại và đầy yêu thương. Bếp lửa là tình bà nồng ấm, bếp lửa là tay bà chu đáo, bếp lửa gắn với những trắc trở gian khổ của đời bà. Ngày ngày bà nhóm lên bếp lửa cũng là nhóm lên niềm vui , sự sống, niềm yêu thương chi chút dành cho tôi và mọi người. bà không những là người nhóm lửa, giữ lửa, mà còn là người truyền lửa, truyền niềm tin , sự sống cho tôi.

5- Giờ đây người cháu đã trưởng thành.

Tôi có những niềm vui mới, tình cảm mới, bờ bến mới. Tổ quốc đã chắp cánh cho tôi bay vào bầu trời thênh thang của tri thức khoa học,nhưng tôi không thể nào quên hình ảnh bà gắn với hình ảnh bếp lửa mà bà tôi ấp iu nhen lên mỗi sớm, mỗi chiều ở nơi quê nhà.

III- Kết bài: Tôi ước ao được về ngay bên bà, ôm chặt lấy bà để được tiếp thêm sức mạnh, niềm tin.

Ví dụ: Những gì là thân thiết nhất của tuổi thơ mỗi người đều có sức tỏa sáng, nâng đỡ con người trong suốt hành trình dài rộng của thế cục phải không những bạn ? Tình yêu thương , lòng hàm ân trong gia đình chính là cội nguồn của tình yêu quê hương quốc gia, con người.

những bài văn mẫu đóng vai người cháu kể lại câu chuyện bếp lửa

Đóng vai người cháu kể lại câu chuyện bếp lửa – Mẫu 1

Ở một nơi xa xôi của châu Âu, nơi mùa đông giá rét, ngồi bên lò sưởi lửa cháy, khá ấm của ngọn lửa phả vào mặt khiến tôi nhớ về bếp lửa nhỏ sớm mai và hình bóng bà tôi của tuổi thơ. Hình ảnh bếp lửa nhỏ lởn vởn trong sương sớm và người bà rất mực yêu thương khiến nỗi nhớ trong tôi khôn nguôi.

Tôi sinh ra trong thời khắc đói kém, trong khi nhân dân ta cùng chống thực dân Pháp xâm lược. quốc gia chìm trong chiến tranh và khủng hoảng. Cuộc sống khó khăn và ngột ngạt nhất là người nông dân. Năm tôi lên bốn, thiên tai, hạn hán khiến cho sản xuất nông nghiệp thất bát, thất thu. Cái đói len lỏi và từng gia đình. Tiếng người chết, khóc thương khiến quang cảnh trở nên u ám.

Bố mẹ tôi làm vần vật mưu sinh để lo cho cuộc sống, còn bà ở nhà trông nom tôi. Cả tuổi thơ của tôi chỉ ở bên bà. Mỗi khi nhóm lửa, ngồi bên bếp lửa ấm vô cùng. Khói bếp cay xè mắt, nước mắt, nước mũi chảy. Nhớ về những hình đó khiến tôi như cay cay trên sống mũi. Bố mẹ theo cách mệnh kháng chiến chống lại quân thù. Tôi ở cùng bà vượt qua nhiều vấn đề và tôi dần lớn khôn trong vòng tay người bà thân yêu. Thời gian trôi qua chiến tranh ngày càng khốc liệt. Bố mẹ không về được. quân thù tiến công ngôi làng, chúng cướp sạch, đốt sạch. Chúng gieo rắc sự sợ hãi cho nhiều người dân vô tội.

Bà con kế bên giúp bà tôi dựng lại túp lều tranh, gây dựng lại từ đống đổ nát, trong tâm trí của mọi người cũng không biết ngày mai thế nào? Tuy khổ nhọc nhưng bà vẫn dặn dò tôi có viết thư cho bố thì chớ kể chuyện nhà. Bảo rằng bà vẫn mạnh khỏe. tuy nhiên nào đi chăng nữa bà vẫn một lòng nghĩ về cuộc chiến, mong bố mẹ tôi an tâm công việc. Bà nhóm ngọn lửa như cháy lên trong tôi ngọn lửa yêu nước, niềm tin và khát vọng gửi gắm tới tương lai.

Hòa bình trở lại với chúng tôi, bố mẹ tôi trở về quê hương sum họp. Bà vui mừng tới nỗi khóe mắt cứ rưng rưng. Dù nắng hay mưa, mấy chục năm qua bà vẫn giữ thói quen dậy sớm nhóm lên bếp lửa, ngọn lửa tuổi thơ trong tôi. Ôi ngọn lửa kỳ lạ và thiêng liêng, có tắt đi rồi lại cháy lên mãnh liệt. Ngọn lửa như nhắn nhủ tôi luôn nhớ về người bà yêu thương, hi sinh vì con cháu và cả quê hương quốc gia.

Dù sau này có đi xa, hưởng cuộc sống sung túc, tôi vẫn không quên hình ảnh bếp lửa và người bà hiền hậu, đồng thời luôn nhắc nhở trách nhiệm của tôi với bà cũng như quê hương, quốc gia.

Đóng vai người cháu kể lại câu chuyện bếp lửa – Mẫu 2

Đã rất nhiều năm trôi qua, tôi ngày nào còn là một đứa trẻ giờ đây đã trưởng thành và đang là sinh viên ngành Luật ở Nga. Khí trời dạo này se se lạnh, vì vậy thoải mái nhất là khi ngồi bên bếp lửa rét mướt, sau một ngày dài. Bếp lửa gợi cho tôi về rất nhiều kỉ niệm, về những ngày thơ ấu, những năm chiến tranh được ở cùng với bà – người đã kế bên tôi suốt nhiều năm, người mà tôi kính trọng nhất.

Hình ảnh bếp lửa khơi nguồn nỗi nhớ sâu sắc trong tôi. Một buổi sáng sớm thời tiết trở mùa, cái khí lạnh của miền Bắc lùa vào trong gian nhà nhỏ. Và cũng vào lúc ấy, bà thức dậy nhóm bếp, một bếp lửa chứa khá ấm và tình yêu thương của bà dành cho đứa cháu. Thời thơ ấu bên bà, có rất nhiều gian khổ, thiếu thốn, nhọc nhằn.

Tôi ở với bà có nhẽ từ rất bé, tới nỗi tôi chẳng nhớ rõ khởi đầu từ lúc nào. Chỉ nhớ là khi tôi lên bốn, mùi khói bếp đã trở nên thân thuộc. Đó là năm sau phóng thích, là năm mà nạn đói hoành hành, cướp đi sinh mạng của rất nhiều người dân. Còn đối với tôi, đó là khoảng thời gian rất khó khăn. Cái ăn cái mặc không đủ, sống trong sự lo sợ, phải dành dụm từng miếng ăn. Bố tôi phải đi đánh xe cùng với con ngựa ốm nhom vì đói. Tiền chẳng được bao nhiêu, nhưng vẫn đủ để lây lất từng ngày. Những tháng ngày ấy, bếp lửa đối với tôi như một nỗi sợ hãi, khói hun nhèm cả mắt, cùng ngồi với bà bên bếp lửa. tới bây giờ khi nhớ lại, sống mũi tôi bỗng cay cay, những kí ức đó vừa là kỉ niệm nhưng cũng làm tôi nghẹn lòng khi nghĩ về.

Tám năm có nhẽ không phải là một khoảng thời gian quá dài, nhưng cũng quá đủ đối với tôi để bếp lửa trở thành hình ảnh gắn liền với tuổi thơ bên bà, cùng bà nhóm bếp. Tôi vẫn còn nhớ tiếng chim tu hú kêu trên những cánh đồng, tiếng kêu vang vảng, nghe sao tha thiết. Những lúc ấy, bà kể tôi nghe chuyện những ngày còn ở Huế, rằng bà từng sống thế nào, tới giờ tôi vẫn còn nhớ.

Mẹ cùng cha đi công việc bận không về, vì vậy mà suốt thời gian đó tôi ở với bà, sống trong sự cưu mang và dạy dỗ của bà. Bà dạy tôi học, kể chuyện cho tôi nghe, những lời bà dạy rất hữu ích, ý nghĩa. Sống với bà nên từ bé tôi đã sớm có ý thức tự lập, sớm biết toan lo, trợ giúp bà. Tôi thương bà lắm, trước đây vất vả nuôi cha tôi lớn khôn, giờ lại phải chăm cháu dù tuổi khá cao, vậy mà bà vẫn rất yêu thương tôi.

Giặc Pháp đi rồi bọn Mỹ lại tới, bao khốn khổ cứ kéo tới. Bọn ác nhân ấy đốt làng cháy tàn cháy lụi. Chúng tôi mất nhà cửa, phải đỡ đần nhau dựng lain túp lều tranh. Tôi lúc ấy đã đủ lớn để thấu nỗi cùng cực của bà. Vất vả là thế nhưng bà vẫn luôn dặn tôi rằng:”Bố ở chiến khu, bố còn việc bố. Mày viết thư chớ kể này kể nọ, cứ bảo nhà vẫn được bình yên”Lúc ấy tôi vẫn từng hỏi rằng vì sao phải làm vậy. Bởi lẽ tôi lúc ấy đã rất mỏi mệt với cuộc sống này, muốn được kể hết cho bố nghe, nói ra nỗi lòng của mình rằng tôi đã rất vất vả, mà vì sao bố vẫn không biết. Giờ nghĩ lại, sao khi ấy tôi ích kỉ thế, không nghĩ rằng bố mẹ còn phải lo việc chiến khu căng thẳng. quả thực, lời bà luôn đúng.

Sớm hay chiều bà luôn nhóm bếp. Hình ảnh của bà luôn gắn liền với hình ảnh ngọn lửa, bà chính là người giữ cho ngọn lửa luôn ấm và tỏa sáng trong mỗi gia đình, để đứa cháu như tôi không lớn lên mà không cảm thấy đơn chiếc vì không được cha mẹ săn sóc. Ngọn lửa mà bà luôn ủ sẵn trong lòng, ngọn lửa chứa niềm tin một ngày quốc gia sẽ được phóng thích của bà, như truyện cho tôi thêm sức mạnh vào cuộc sống.

thế cục bà long đong, không biết bao lần chịu đựng vất vả. Mấy chục năm rồi, bà vẫn giữ một thói quen cũ, đó là dậy sớm. Bà dậy sớm để nhóm bếp, bếp lửa lan tỏa khá ấm và tình yêu của bà. Bao nhiêu năm, khoai sắn ngọt bùi, nồi xôi gạo thơm nóng, được bà nhóm chứa đầy những tâm tình của tuổi nhỏ. Cái vị ấy sao mà thân thuộc, thân yêu tới thế. Cùng bà sẻ chia niềm vui, đắng cay trong suốt nhiều năm trời, tôi làm sao quên được.

Giờ tôi đã đi xa. Ở nơi quốc gia xa lạ này, có ngọn khói trăm tàu, niềm vui trăm ngả nhưng hình ảnh bếp lửa vẫn rất thiêng liêng. Nó gợi cho tôi về người bà đã gắn bó với cả tuổi thơ của mình Ngày ngày, bà nhóm lên bếp lửa cũng là nhóm lên niềm vui, sự sống, niềm yêu thương chi chút cho cháu và mọi người. Không chỉ bằng nhiên liệu thông thường, mà bếp lửa còn được nhóm bằng chính ngọn lửa mà bà luôn giữ trong lòng, của sức sống và niềm tin, một cách kì diệu và thiêng liêng.

Mùi khói thoang thoảng, sống mũi tôi lại cay. Những kí ức chợt ùa về trong cơn gió mùa đông se lạnh. Tôi nhớ bà, nhớ cả bếp lửa, có vui lẫn buồn. có nhẽ bếp lửa đã trở thành một thứ rất quan trọng trong cuộc sống của tôi, thứ mà tôi không thể nào quên được. Ôi kì lạ và thiêng liêng- bếp lửa.

Đóng vai người cháu kể lại câu chuyện bếp lửa – Mẫu 3

Có một nơi là nơi xuất phát, cũng là nơi trở về và là lợi thế vững chắc cho con người trong hành trình sống. Nơi ấy là nhà. Nơi ấy với tôi còn có người bà yêu kính. Và để rồi, khi trưởng thành, khi đang sinh sống và làm việc tại Liên Xô, tôi lại bổi hổi, xốn xang nhớ về người bà yêu kính gắn với hình ảnh bếp lửa….

Tôi lại nhớ về hình ảnh ngọn lửa hồng ấy…Ngọn lửa có nhẽ là không lạ gì trong đời sống của mỗi chúng ta. Một ngọn lửa được bà nhen lên mỗi buổi sáng sớm. Một ngọn lửa được đôi bàn tay gầy guộc của bà ấp iu, chở che để chúng có thể cháy lên và tỏa sáng…

Hình như cái ngọn lửa thân yêu ấy, tôi đã quen mùi khói từ năm tôi lên bốn. Năm đó gắn với nạn đói của dân tộc- năm 1945 với hình ảnh của những người chết vì đói nằm như ngả rạ. Bố tôi phải làm việc vất vả. tới bây giờ tôi vẫn còn cay sống mũi mỗi khi nhớ lại về những năm đó…

Rồi tám năm ròng rã, tôi đã bên bà, cùng bà nhóm lên những ngọn lửa hồng. Khi con tu hú kêu trên những cánh đồng xa báo hiệu một mùa hè lại về, bà ơi, bà có còn nhớ không bà? Tôi còn nhớ, khi tu hú kêu, lại gắn với những câu chuyện bà hay kể về những ngày ở xứ Huế. Tiếng tu hú tha thiết kêu mãi không ngừng… Đó là những tháng ngày chiến tranh, bố mẹ tôi bận công việc ở xa nên không có nhà. Tôi ở cùng bà, được bà dạy làm, được bà dạy học. Bà đã thay cha mẹ tôi nuôi tôi lớn khôn và trưởng thành.

Rồi năm đốt làng cháy tàn cháy rụi, láng giềng bốn bên trở về trong cảnh lầm lụi. Bằng tình cảm xóm làng láng giềng. mọi người đã giúp bà dựng lại túp lều tranh. Vẫn vững lòng, và thêm cả sự lo lắng cho bố mẹ tôi, bà liền dặn tôi rằng:

– Bố ở chiến khu, bố vẫn còn nhiều việc lắm. Mày có viết thư, không được kể này kể nọ nghe chưa, cứ bảo nhà vẫn được bình yên để bố mẹ an tâm công việc!

Xem thêm bài viết hay:  cuộc thế và sự nghiệp Giáo sư âm nhạc Trần Văn Khê

Rồi hàng ngày, cứ sớm rồi lại chiều, bà vẫn tiếp tục với công việc hàng ngày của mình là nhóm lửa. Một ngọn lửa chứa tình yêu thương của bà luôn ủ ấp nơi đáy lòng, một ngọn lửa chứa niềm tin dằng dai của bà…

Đời bà luôn vất vả như thế. Vất vả nuôi tôi lớn khôn và ngày trước là vất vả nuôi bố tôi. Mấy chục năm rồi, tới tận bây giờ bà vẫn giữ thói quen dậy sớm, nhóm những bếp lửa ấp iu nồng đượm, nhóm cả những nồi khoai sắn có cả những yêu thương của bà để xây đắp cho tôi bao ước mơ, để giờ tôi có thể du học tại quốc gia Liên Xô. Bếp lửa của bà còn nhóm lên cả tình nghĩa với xóm làng. Ôi bếp lửa của bà, tuy giản dị mà lại rất đỗi thiêng liêng!

Giờ đây, tôi đã đi xa, cách bà tới nửa vòng Trái Đất. Một cuộc sống mới đã mở ra trước mắt tôi. Nơi ấy, có những ngọn khói trăm tàu, có lửa trăm nhà và có niềm vui trăm ngả. Nhưng tôi vẫn không thể nào tự quên nhắc nhở bản thân rằng “Sớm mai này, bà đã nhóm bếp lên chưa?”

Bà ơi! Cháu yêu bà và cũng thương bà biết bao. Cuộc sống hiện đại dễ làm lòng người thay đổi nhưng hình ảnh của một người bà ngày ngày nhóm lên những ngọn lửa yêu thương sẽ mãi không bao giờ phai nhạt trong tâm trí cháu. Cuộc sống ở phương xa này, dù vui thật nhưng khi niềm vui tàn đi, nhất là những khi cháu ở một mình, cháu lại nghĩ về bà nơi mái nhà tranh, nơi bà kể chuyện cháu nghe, nơi bà dạy cháu học, nơi hình thành con người cháu, nơi có ngọn lửa hồng thắp lên trong cháu những ước mơ.

dong vai nguoi chau ke lai cau chuyen bep lua 1 1 1

Đóng vai người cháu kể lại câu chuyện bếp lửa – Mẫu 4

Tôi đang du học ở một nước xa xôi, cách Việt Nam hàng nghìn kilomet, nơi quốc gia lạnh giá bỗng thèm khá ấm từ bếp lửa của người bà thân yêu, ngọn lửa mà bà thắp lên mỗi sáng tờ mờ.

Tuổi thơ tôi gắn bó với bà, ngọn lửa lởn vởn trong sớm mai, ngọn lửa gắn liền với hình ảnh người phụ nữ Việt Nam chuyên cần, chịu thương chịu khó và giàu đức tính hi sinh. Bà tôi là một người phụ nữ tương tự, kí ức về bà gắn với kỉ niệm tuổi thơ nạn đói năm 1945 hoành hành khiến hàng triệu người chết, gia đình tôi cũng vậy phải nỗ lực đi tìm miếng ăn để vượt qua thời khắc đen tối đó, giờ nghĩ lại mà sóng mũi còn cay cay.

Tôi có rất nhiều kỉ niệm nhớ mãi với người bà, thời gian kháng chiến chống thực dân Pháp mẹ và cha tôi phải đi công việc ở chiến khu, bà ở nhà nuôi nấng, dạy dỗ tôi trưởng thành, bà đun lửa lên sưởi ấm cho tôi mỗi khi trời trở rét. Bà thương yêu bao bọc chở che giúp cha mẹ an lòng công việc xa nhà.

Một kỉ niệm tới tận giờ tôi vẫn không quên đó là lần giặc càn tàn phá xóm làng, ngọn lửa thiêu rụi tài sản mọi người trong làng, khi giặc đi qua tất cả không còn gì. Trong hoàn cảnh tương tự bà vẫn dặn tôi không được nói với cha mẹ để họ yên tâm công việc. Bà không chỉ chuyên cần, giàu tình yêu thương mà còn giàu đức hi sinh làm hậu phương vững chắc cho cha mẹ yên lòng, với tôi bà là người mẹ Việt Nam trung hậu, đảm đang, quật cường.

Ngọn lửa của bà không chỉ sử dụng để sưởi ấm mà chứa đựng niềm yêu thương luôn cháy trong lòng tôi, bà là đại diện thế hệ cha anh giữ lửa truyền lửa tới thế hệ tương lai, hình ảnh bếp lửa giản dị thân thuộc như chứa đựng sự cao quý thiêng liêng tới kỳ lạ.

Trải qua thời gian, tôi đã trưởng thành, tìm tới với những tuyến đường, chân trời mới, cuộc sống mới đã có “khói trăm tàu, lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả” nhưng trong lòng tôi vẫn luôn hiện hữu thắc mắc “sớm mai này bà nhóm lửa lên chưa” ? ngọn lửa của bà chính là kỉ kiệm tuổi thơ, tình bà cháu đã nuôi nấng tôi trưởng thành, hình ảnh đó sẽ cháy mãi trong lòng tôi – ngọn lửa yêu thương của gia đình, yêu quê hương quốc gia.

Đóng vai người cháu kể lại câu chuyện bếp lửa – Mẫu 5

Tôi vẫn nhớ thi sĩ Nguyễn Duy đã từng viết:

“Thuở nhỏ tôi ra cống Na câu cá

níu váy bà đi chợ Bình Lâm

bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật

và thỉnh thoảng ăn trộm nhãn chùa Trần”

nhịn nhường như trong kí ức tuổi thơ của bao đứa trẻ, những tháng năm vô lo vô nghĩ bên người bà luôn là quãng thời gian êm đềm và thân yêu nhất. Vượt qua bao sự thăng trầm trong thế cục và sàng lọc của thời gian, những kỉ niệm mộc mộc ấy về bà vẫn đọng lại trong miền nhớ của biết bao tâm hồn, nó đưa ta về với khoảng trời xưa cũ bình dị mà an nhiên tự tại thuở niên thiếu. Với riêng tôi, có nhẽ kỉ niệm về bà bên bếp lửa bập bùng mỗi sớm mai luôn đi về trong cõi nhớ của tôi trên những chặng đường mà tôi trải qua. Nỗi nhớ ấy lại càng cồn cào da diết hơn trong những năm tháng sống xa xứ, đón những đợt gió tuyết nơi xứ sở Bạch Dương. Trong những phút giây tĩnh lặng, mỗi khi nhìn làn khói của những ngôi nhà phía xa kia, cả một trời thương nhớ trong tôi lại ùa về, về bà về bếp lửa hồng sưởi ấm cả tuổi thơ tôi, về hương vị quê nhà…

Theo dòng hoài niệm, kí ức đưa tôi về với những đêm đen của cái đói mòn đói mỏi năm 1945. Ngôi làng nhỏ nơi tôi sinh sống, nhà nào cũng rơi vào cảnh đói thê thảm. Trong những năm tháng cùng cực ấy, để tranh giành lấy sự sống ngày một thoi thóp, bố tôi phải lên phố xe thuê rạc cả người, dẫu vậy cũng chỉ đủ để rau cháo cầm khá mà sống qua ngày. Cái nghèo đói cùng cực của năm Ất Dậu ấy như một nỗi sợ hãi trong tâm hồn non nớt của đứa trẻ bốn tuổi lúc đó. Chính mùi khói bếp của bà đã mang tới cho tôi những khá ấm, sự an lòng và xua đi cái mùi tử khí tràn ngập quanh ngõ xóm thôn nghèo. Thứ hương thơm dung dị như nhen lên từ tình yêu nồng hậu của bà đã sưởi ấm cho tôi trong suốt thuở thiếu thời để rồi sau này trên mỗi hành trình dài và rộng mà tôi qua, mùi khói bếp ấy vẫn làm tôi cay cay sống mũi mỗi khi hồi ức lại. Những năm tháng sau đó khi kháng chiến bùng nổ, bố mẹ tôi thoát ly gia đình đi làm cách mệnh, lên đường theo tiếng gọi của Tổ Quốc. Suốt tám năm trời đằng đẵng tôi sống trong sự đùm bọc chở che của bà, bên bóng vía tảo tần của bà và bên bếp lửa hồng bà nhen lên mỗi sớm chiều. Những năm tháng thơ bé ấy, kế bên bà cháu tôi, kế bên bếp lửa vẫn còn một nhân chứng mà tôi không thể nào quên đó là chim tu hú. Tiếng hót của nó nghe sao mà chơ vơ lạc lõng như thèm khát được chở che ấp iu tới vậy. Tiếng tu hú khắc khoải như xé tan cả khoảng không gian mênh mông buồn vắng, thương con chim tu hú xấu số biết bao nhiêu tôi càng hàm ân và trân trọng những tháng ngày tuổi thơ hạnh phúc được bà chu đáo, bao bọc bấy nhiêu. Bên bếp lửa bập bùng, tôi được nghe bà trải lòng về thế cục bà những tháng năm còn ở Huế. Một thế cục đầy truân chuyên và cùng cực. Bà gửi những hy vọng, ước mong về một tươi lai tươi sáng hơn trong tôi. Rồi cũng ở bếp lửa nơi góc bếp, bà chăm tôi từng bữa ăn giấc ngủ và là người thầy trước tiên dạy tôi những bài học quý giá trong thế cục. Những bài học làm người cao đẹp ấy đã trở thành một lợi thế vững chắc chắp cánh cho những giấc mơ cao đẹp trong thế cục. Thứ ánh lửa rét mướt nồng nàn ấy mang tới cho tầm hồn tôi một sự yên ủi trong những tháng ngày sống thiếu tình cảm của cha mẹ, bà như lợi thế ý thức cho tôi vững bước. Cuộc sống vẫn vậy, vẫn khắc nghiệt và luôn muốn thử thách bản lĩnh của con người. tới một ngày tiếng súng, tiếng bom của cuộc chiến tranh khắc nghiệt dội về làng tôi. Trước họng súng và ngòi nổ hủy diệt của quân địch, ngôi làng tôi lúc đó là một đống tro tàn, nhà cửa của mọi người đều hoàn toàn cháy rụi. Tôi biết lúc đó bà đang nuốt ngược nỗi đau và nước mắt vào trong. Nơi chốn nương thân của hai bà cháu tôi không còn, nhưng nghị lực và ý chí thép được tôi rèn trong những năm tháng bể dâu của thế cục không cho phép bà tôi gục ngã buông xuôi. Bà rắn rỏi dắt tôi vượt qua hoàn cảnh ngặt nghèo. Tôi hiểu rằng những thiếu thốn, cùng cực mà tôi mới trải qua không thể nào đong đếm được với những gian lao, nhọc nhằn và nỗi thương nhớ con nơi chiến trường đỏ lửa đều phải nén lại vào trong của bà. Và rồi đâu rồi cũng vào đó, nhờ vào tình làng nghĩa xóm mà bà cháu tôi cũng dựng được ngôi nhà nhỏ trên nền đất cũ năm nào. Bà đã nhóm lên trong tôi ý chí và nghị lực sống trong thế cục này. Thật kì diệu bởi tôi tin rằng những gì bị thiêu cháy trong ngọn lửa hung tàn kia đã được hồi sinh trong bếp lửa của bà. Cứ thế tuổi thơ tôi được bà chở che qua bao tháng năm. Chính ngọn lửa của lòng bà đã nhen lên ngọn lửa dẻo dai, trường tồn theo dọc thời gian của bếp lửa kia.

Tháng năm làm tôi lớn lên và trưởng thành, những hoài bão đưa bước chân tôi tới với những chân trời xa nhưng không thể nào tôi quên được ngọn lửa hồng nơi góc bếp bởi nơi đó có tình yêu thương và đức hi sinh lặng thầm của người bà mà tôi dành cả thế cục mình để hàm ân và trân trọng, cũng chính tại nơi đó bà nhen nhóm lên trong tôi những ước mơ về một thế cục mới. nếu như những câu chuyện cổ tích là người bạn của bao tâm hồn thơ bé, thì bà chính là người viết lên câu chuyện cổ tích giữa thế cục này cho riêng tôi. Trong câu chuyện ấy là ánh lửa bập bùng sớm tối, là tình yêu nồng hậu của bà, là mùi nếp mùi sắn thơm hương, của quê hương, và luôn là nơi mà tôi thuộc về…

Đóng vai người cháu kể lại câu chuyện bếp lửa – Mẫu 6

“Đôi mắt càng già càng thấm thía yêu thương

Da dẻ dù khô đi tấm lòng không hẹp lại

Giàu nhẫn nại bà còn hy vọng mãi

Chỉ mỗi ngày rắn lại ít lời thêm”

Đó là những vần thơ mà tôi muốn tặng cho người bà yêu kính của mình. Tôi đang là sinh viên ngành Luật ở nước Nga. Bây giờ đã là tháng 9, trời khởi đầu trở lạnh làm tôi nhớ những kí ức về bà, bếp lửa mà ngày xưa tôi cùng bà nhóm bếp, cũng là một phần đã tạo nên tuổi thơ của tôi.

Tuổi thơ của tôi được sống bên bà, lúc đó nhóm lửa cùng bà vô cùng cực khổ và nhọc nhằn. Lên năm bốn tuổi, tôi đã quen với mùi khói. Tôi vẫn nhớ lúc ấy vào năm 1945, nạn đói xảy ra kinh khủng đối với gia đình tôi cũng như bao gia đình ở Việt Nam. Cái cảnh mọi người làm việc kiếm miếng ăn thấy mà đau lòng. Số người chết vì đói cũng ngày càng tăng. Ba tôi đi đánh xe ngựa cực khổ con ngựa cũng gầy gò mà cái đói vẫn bám riết không tha, người dân cực khổ vô cùng.

Rồi vào những năm kháng chiến chống thực dân Pháp xảy ra, ba và mẹ tôi tham gia công việc kháng chiến nên tôi ở cùng bà. Tám năm tôi cùng bà nhóm lửa, hẳn là tuổi thơ tôi đã gắn liền với bếp lửa đó. Cái mùi bếp lửa cay cay, khiến mỗi lần tôi nhóm lửa nước mắt, nước mũi đều chảy. Bà đã thay ba mẹ tôi nuôi dạy tôi nên người. Bà dạy tôi làm việc nhà, dạy tôi học, săn sóc tôi với tình yêu thương vô vàn như một người mẹ .

Mỗi buổi sáng, bà đều làm đồ ăn để tôi dậy ăn. Bà làm việc này tới việc khác không ngơi nghỉ mà cũng không than phiền hay trách móc gì cả. thế cục bà đã đi qua bao nhiêu sóng gió nắng mưa, đã chịu nhiều cực khổ nên tôi không muốn phiền lòng bà nữa. Tôi đã lớn lên trong vòng tay yêu thương và bảo bọc của bà. Đôi lúc những khi rãnh rỗi bà còn thường kể chuyên tôi nghe rồi nhắn nhủ với tôi rằng: “Con phải ráng học để xây dựng quốc gia, nếu như không thì quốc gia mình chỉ mãi nghèo khổ thôi”.

Có những khi trời mưa làm cho củi ướt, lúc đó nhóm bếp khổ vô cùng. Mỗi khi tu hú kêu trên những cánh đồng, bà thường kể cho tôi nghe những chuyện ở Huế. Bà kể giọng rất truyền cảm, từng chữ từng lời nói của bà đều khác sâu trong lòng tôi. Tiếng tu hú kêu làm tôi và bà đều nhớ ba mẹ tôi ở chiến khu da diết. Càng lớn tôi càng cảm thấy thương bà, càng không muốn xa quê hương để bà vất vả.

Năm đó là nạn giặc tàn phá xóm làng, thiêu rụi nhà cửa, tài sản. láng giềng và bà cháu tôi đều chịu nhiều khổ cực, mất mát và đau thương. Cái hình ảnh đó đã sợ hãi hết một phần của tuổi thơ tôi. Sau những ngày rời khỏi quê nhà, thì láng giềng và bà cháu tôi trở về lậm lụi. Tôi đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh nhỏ để sống qua ngày. Tôi thấy bây giờ cuộc sống cực khổ nên nói với bà: “Bà ơi hay là cháu viết thư cho ba mẹ nhé, để ba mẹ trở về để phụ bà”. Nhưng bà không chịu và nói nhỏ nhẹ với tôi rằng: “Ba mẹ ở chiến khu còn rất nhiều việc, nên mày có viết thư chớ kể này kể nọ, cứ bảo là gia đình vẫn bình yên là được rồi.

Tôi hiểu lòng bà nên chỉ vâng lời thôi, và tôi càng thấy thương bà hơn, một mình bà gánh vác hết mọi công việc còn lo cho con ở chiến khu, tôi cảm thấy bà như một vị anh hùng giàu tình yêu thương và đức hi sinh. Nên mọi việc gì trong nhà tôi có thể làm được thì tôi liền giúp bà như: cho gà ăn, lấy củi, hái rau,… dù những công việc đó nhỏ nhưng cũng sẽ giúp hộ sinh được phần nào. Những ngày mà bà làm việc nặng, tới tối thủ công bà mỏi thì đôi đấm bóp cho bà, cho bà dễ chịu.

Ngày qua ngày tôi cùng bà nhóm bếp lửa. Một ngọn lửa chứa niềm tin và hình ảnh của bà. Mấy chục năm rồi mà bà vẫn thức khuya dậy sớm trải qua mưa nắng thế cục, tảo tần săn sóc tôi. Công việc của bà giản dị nhưng tôi vẫn hàm ân vô cùng như: bà nấu khoai, bà san sẻ tình làng nghĩa xóm. Bếp lửa đã cùng bà trải qua nắng mưa trong thế cục bà. Ôi bếp lửa giản dị nhưng riêng tôi cảm thấy đó là điều kì lạ thiêng liêng cao đẹp.

Bếp lửa còn là tình bà nồng ấm, bếp lửa gắn với những gian khổ, gian lao đời bà. Ngày ngày bà nhóm bếp lên, cũng giống như bà nhóm niềm vui niềm yêu thương giành cho tôi và mọi người. Bà không những là người nhóm lửa, mà còn là người truyền lửa truyền niềm tin cho mọi người.

Giờ đây tôi đã trưởng thành sống với những nơi có bếp gas, bếp điện. “Có ngọn khói trăm tàu, có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả “luôn hiện hữu trong tâm trí tôi với thắc mắc: “Mai này bà nhóm lửa lên chưa”. Ôi bếp lửa tình bà sao rét mướt tới tương tự! Bếp lửa đã nuôi lớn tôi, giúp tôi trưởng thành như ngày ngày hôm nay. Bây giờ tôi chỉ muốn về với bên bà, được bà kể chuyện, được bà săn sóc yêu thương. Mỗi con người người nào cũng đều có cội nguồn để trưởng thành. Vì vậy mà tôi sẽ không bao giờ quên được cái hình ảnh người bà và bếp lửa đã nuôi dạy tôi trưởng thành như ngày ngày hôm nay.

Đóng vai người cháu kể lại câu chuyện bếp lửa – Mẫu 7

Trong mỗi chúng ta, có nhẽ kỉ niệm tuổi thơ ấu bao giờ cũng là những trang kí ức sâu đậm nhất. đó có thể là kỉ niệm về làng quê thân yêu, hay cũng có thể là kỉ niệm về tuổi học trò. Những kỉ niệm ấy như ăn sâu vào trong tiềm thức của chúng ta, khiến ta khó lòng mà quên được. Đối với tôi cũng vậy!

Tuổi thơ về người bà thân yêu gắn liền với bóng đen rùng rợn của nạn đói năm Ất Dậu, đó trở thành dấu ấn sâu đậm nhất trong lòng tôi và trong nỗi nhớ ấy, lòng tôi đã dấy lên một niềm xúc động khi những dòng kí ức ấy ùa về.

Xem thêm bài viết hay:  Tả em trai yêu quý của em

Đối với bản thân tôi “bếp lửa lởn vởn sương sớm”, “bếp lửa ấp iu nồng lượm” đã trở thành một hình ảnh sắp gũi, thân thuộc trong gia đình nông thôn chúng tôi. Bếp lửa là nơi khởi đầu nỗi nhớ da diết của tôi. Trong dòng xúc cảm dạt dào ấy, bếp lửa đã trở thành một kỉ niệm khó phai. Bếp lửa thể hiện sự tảo tần của bà mà còn thắp lên tình thương yêu sâu sắc của hai bà cháu.

Từ năm lên bốn tuổi, tôi đã quen với mùi khói mà bà nhóm lên. Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi và hình ảnh bếp lửa đã trở nên không thể thiếu trong đời tôi. Để bây giờ nhớ lại tôi lại cảm thấy cay xè sống mũi. Bếp lửa thiêng liêng trở thành một dấu ấn, một nỗi nhớ, nỗi sợ hãi sâu sắc trong thế cục tôi.

Tám năm! một quãng thời gian không dài cũng không ngắn nhưng đủ để nhen nhóm trong lòng tôi một ngọn lửa tình yêu cháy bỏng dành cho người bà. Bếp lửa của quê hương, của sự yêu thương gợi lên tiếng chim tú hú như hối thúc nghe sao mà da diết quá!

Trong khoảng thời gian chiến tranh, tôi sống trong sự cưu mang, dạy dỗ của bà. Bếp lửa hiện lên như tình bà rét mướt, như chỗ dựa ý thức, như sự đùm bọc châm chút của bà. Bên bếp lửa, bà kể tôi nghe những câu chuyện còn ở Huế, bà dạy, bà bảo, bà chu đáo tôi.

Giặc đi, người nào người nào cũng bị mất mát rất nhiều, tuy nhiên mọi người vẫn trợ giúp nhau dựng cho nhau những túp lều. Bà lặng lẽ chịu dựng để bố mẹ tôi yên tâm công việc nơi phương xa. Vất vả chồng lên vất vả, gian truân tiếp nối gian truân, nhưng bà vẫn dặn tôi đinh ninh “Bố ở chiến khu, bố còn việc bố, mày viết thư chớ kể này, kể nọ, cứ bảo nhà vẫn bình yên. “Ôi chao! khi nghĩ lại lời dặn ấy thật mộc mạc, bình dị nhưng lại chất chứa trong ấy biết bao tâm tình, biết bao khổ đau thế cục bà

Khi nhớ lại, nỗi kỉ niệm ấy lại dâng lên thêm. Tôi lại suy ngẫm về thế cục tảo tần của bà, thế cục luôn hùi hụi làm việc. Bà vẫn luôn giữ thói quen dậy sớm nhóm lửa và công việc ấy kéo dài suốt thế cục bà, bà nhóm lửa cho ngày hôm nay, cho ngày mai và tới mãi ngày mai,… Bà nấu cho tôi những bữa ăn trông thật đơn thuần nhưng lại chất chứa trong đó tình cảm sâu đậm của bà. Và chính bà là người khơi dậy ước mơ, khát vọng tuổi thơ của tôi.

Ngọn lửa mà bà nhen nhóm cả một đời người là ngọn lửa thiêng liêng và kì lạ. Là kỉ niệm nâng bước tôi trong thế cục dài. Bà tôi không chỉ là người nhóm lửa mà còn là người truyền lửa – ngọn lửa của sự sống, tình yêu thương, niềm tin cho bao thế hệ. Bếp lửa có nhẽ trở thành một biểu tượng của sự sống của niềm yêu thương và cội nguồn, gia đình, quốc gia, là sự sống dẻo dai của con người

Không chỉ tương tự, hiện diện cùng bếp lửa là người bà, cũng là tiêu biểu cho hình ảnh người phụ nữ Việt Nam với vẻ đẹp tảo tần, nhẫn nại và đầy yêu thương. Bà là người giàu đức hi sinh, giàu lòng yêu nước. Giữa tro tàn, mất mát đau thương, bà vẫn miệt mài nhóm lửa. Bếp lửa mà bà vẫn thường nhóm sớm sớm chiều chiều đã dâng lên thành ngọn lửa trong lòng bà.

Những nỗi nhớ về bà khép lại trông sự buồn man mác của tôi. Tôi rất nhớ, rất nhớ về tình yêu thương của bà, bếp lửa thiêng liêng và quê hương nồng nàng, tha thiết của tôi. Vì vậy, tôi càng trân trọng những tình cảm tôi đang có. Bếp lửa như lời nhắc nhở tôi về cội nguồn, tình nghĩa thiêng liêng, sâu nặng trong cuộc sống!

Đóng vai người cháu kể lại câu chuyện bếp lửa – Mẫu 8

Bao nhiêu năm xa quê hương, xa bà, xa miền quê yêu dấu nhưng tôi vẫn không thể nào quên được những thánh năm tuổi thơ, có bà bên bếp lửa ấm. nhịn nhường như cái rét cắt da thịt của mùa đông nước Nga khiến tôi hồi ức về ký ức khi ấy.

Năm tôi lên bốn, tức là năm 1945, quốc gia đang lâm vào một nạn đói kinh khủng, khi ấy cuộc sống khó khăn rất nhiều. Bố mẹ tôi phải ra ngoài kiếm tiền, tôi được bà săn sóc. Tôi còn nhớ khi ấy nhà nhà người nào cũng đói, cả người lẫn ngựa đều gầy. Người chết vì đói cũng không ít, thế nên người dân phải đót rơm để trừ tử khí, đốt nhiều tới nỗi khói hun nhèm mắt, tới giờ vẫn còn cay. Dù vậy tôi cùng bà cũng không bỏ cuộc, chúng tôi ngồi bên ngọn lửa như có một hy vọng, dù không lớn nhưng vẫn sống mãnh liệt.

Bố mẹ tôi đi theo tiếng gọi Tổ Quốc, giao tôi cho bà giữ. Tám năm ròng rã tôi cùng bà nhóm lửa, dù có khổ tới mấy, bà vẫn ngày ngày thắp lên ngọn lửa như thấp lên mỗi niềm hy vọng. Tôi ngồi trông những đàn chim tu hú hót tha thiết ngoài cánh đồng, tôi chỉ muốn nó rằng: “Tu hú ơi sao chẳng ở cùng bà?”. Tôi từ nhỏ đã quen cái khá thân thuộc của bà. Cùng bà dậy sớm để cùng thắp lên “hy vọng” dần dần đã trở thành niềm vui nho nhỏ của tôi.

Tôi vẫn nhớ những câu chuyện khi ấy của bà. Bà thường hay kể những ngày ở Huế cho tôi nghe, dù bà có kể bao nhiêu tôi vẫn không thấy chán. Được áp đầu nằm lên đùi bà, được những ngón tay rét mướt của bà luồn qua khe tóc, nằm nghe những câu chuyện cùng với khá ấm của bếp lửa và tất nhiên là với bà cũng đủ làm cho tôi hạnh phúc.

Bố mẹ đi xa, bà tôi thay bố mẹ dạy tôi nhiều việc, bà lo cho tôi ăn học, lo cho tôi ăn uống, săn sóc tôi, khuyên răn tôi những việc sai. Khi lớn lên tôi mới trông thấy, bà thương tôi, lo cho tôi không có đủ tình thương, bà nỗ lực đảm nhiệm là một người bố, người mẹ và là một người thầy để lo cho tôi. Dù khó khăn bà cũng chỉ để tôi thấy một nụ cười hiền hòa. Nhớ tới đây, hai gọt lệ lăn dài trên má tôi…

Bình yên là thế cho tới khi…. Năm đó, giặc đốt làng cháy rụi. Tôi cùng bà đi trốn. Khi mọi việc kết thúc, bà nắm chặt tay tôi đi từng bước run rẩy vào làng, mọi thứ trước mắt tôi thật hoang tàn. Tôi có thể nghe được cả tiếng than khóc của người dân. Chúng tôi về tới ngôi nhà tranh của mình, nó đã bị đổ xuống nhưng may là những chưng láng giềng đã giúp chúng tôi dựng lại được. Đêm ấy, ngồi bên bà, chợt bà bảo tôi: “Mày có viết thư cho bố thì đừng kể này kể nọ, cứ bảo là chúng ta vẫn bình yên. Đừng để bố bây lo.”

Chính là thế, dù có ra sao bà tôi vẫn gắng gượng gập. Người phụ nữ ấy là niềm tự hào to lớn của tôi, bà không bao giờ than vãn, hay tỏ ra mỏi mệt, tôi biết bà đang nỗ lực giữ cho tôi luôn lạc quan. Dù sớm dù chiều, dù đã qua mấy chục năm, bà vẫn luôn thắp lên bếp lửa ấp iu ấy. Ngọn lửa được bà dành chọn lựa tất cả niềm thương yêu của mình. Chính bếp lửa ấy là nơi có khoai sắn ngọt bùi, nồi xôi gạo sẻ chia và những tâm tình tuổi thơ. Tôi hiểu lòng bà, vì sao bà lại nhóm lửa, tôi hiểu rằng bà đang hy vọng, ngọn lửa bà thắp như là một niềm tin quốc gia sẽ thắng lợi, sẽ bình yên. Bà dành cả đời mình chỉ để hy vọng niềm tin hạnh phúc của bà có thể thành hiện thực.

Dù tôi đang ở nơi xa Tổ Quốc, cho dù tôi không thể ở cùng bà, dù tôi đang thấy những điều mới lạ. Tôi vẫn không quên hình ảnh người bà thân thường cùng bếp lửa thắp lên niềm tin của tôi. Tôi tin bà vẫn luôn ở đây, đang thắp lên ngọn lửa rét mướt trong lồng tôi. “Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?.”

Đóng vai người cháu kể lại câu chuyện bếp lửa – Mẫu 9

“Đôi mắt càng già càng thấm thía yêu thương

Da dẻ dù khô đi tấm lòng không hẹp lại

Giàu nhẫn nại bà còn hy vọng mãi

Chỉ mỗi ngày rắn lại ít lời thêm”

Đó là những vần thơ mà tôi muốn tặng cho người bà yêu kính của mình. Tôi đang là sinh viên ngành Luật ở nước Nga. Bây giờ đã là tháng 9, trời khởi đầu trở lạnh  làm tôi nhớ những kí ức về bà, bếp lửa mà ngày xưa tôi cùng bà nhóm bếp, cũng là một phần đã tạo nên tuổi thơ của tôi.

Tuổi thơ của tôi được sống bên bà, lúc đó nhóm lửa cùng bà vô cùng cực khổ và nhọc nhằn. Lên năm bốn tuổi , tôi đã quen với mùi khói. Tôi vẫn nhớ lúc ấy vào năm 1945, nạn đói xảy ra kinh khủng đối với gia đình tôi cũng như bao gia đình ở Việt Nam. Cái cảnh mọi người làm việc kiếm miếng ăn thấy mà đau lòng. Số người chết vì đói cũng ngày càng tăng. Ba tôi đi đánh xe ngựa cực khổ con ngựa cũng gầy gò mà cái đói vẫn bám riết không tha, người dân cực khổ vô cùng.

Rồi vào những năm kháng chiến chống thực dân Pháp xảy ra, ba và mẹ tôi tham gia công việc kháng chiến nên tôi ở cùng bà. Tám năm tôi cùng bà nhóm lửa, hẳn là tuổi thơ tôi đã gắn liền với bếp lửa đó. Cái mùi bếp lửa cay cay, khiến mỗi lần tôi nhóm lửa nước mắt, nước mũi đều chảy .  Bà đã thay ba mẹ tôi nuôi dạy tôi nên người. Bà dạy tôi làm việc nhà, dạy tôi học, săn sóc tôi với tình yêu thương vô vàn như một người mẹ .

Mỗi buổi sáng, bà đều làm đồ ăn để tôi dậy ăn. Bà làm việc này tới việc khác không ngơi nghỉ mà cũng không  than phiền hay trách móc gì cả. thế cục bà đã đi qua bao nhiêu sóng gió nắng mưa, đã chịu nhiều cực khổ nên tôi không muốn phiền lòng bà nữa. Tôi đã lớn lên trong vòng tay yêu thương và bảo bọc của bà. Đôi lúc những khi rảnh rỗi bà còn thường kể chuyện tôi nghe rồi nhắn nhủ với tôi rằng: “ Con phải ráng học để xây dựng quốc gia , nếu như không thì quốc gia mình chỉ mãi nghèo khổ thôi”.

Có những khi trời mưa làm cho củi ướt, lúc đó nhóm bếp khổ vô cùng. Mỗi khi tu hú kêu trên những cánh đồng, bà thường kể cho tôi nghe những chuyện ở Huế. Bà kể giọng rất truyền cảm , từng chữ từng lời nói của bà đều khác sâu trong lòng tôi. Tiếng tu hú kêu làm tôi và bà đều nhớ ba mẹ tôi ở chiến khu da diết. Càng lớn tôi càng cảm thấy thương bà, càng không muốn xa quê hương để bà vất vả.

Năm đó là nạn giặc tàn phá xóm làng, thiêu rụi nhà cửa, tài sản. láng giềng và bà cháu tôi đều chịu nhiều khổ cực, mất mát và đau thương. Cái hình ảnh đó đã sợ hãi hết một phần của tuổi thơ tôi. Sau những ngày rời khỏi quê nhà, thì láng giềng và bà cháu tôi trở về lậm lụi. Tôi đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh nhỏ để sống qua ngày. Tôi thấy bây giờ cuộc sống cực khổ nên nói với bà: “Bà ơi hay là cháu viết thư cho ba mẹ nhé , để ba mẹ trở về để phụ bà”. Nhưng bà không chịu và nói nhỏ nhẹ với tôi rằng: “Ba mẹ ở chiến khu còn rất nhiều việc, nên mày có viết thư chớ kể này kể nọ , cứ bảo là gia đình vẫn bình yên là được rồi.

Tôi hiểu lòng bà nên chỉ vâng lời thôi ,và tôi càng thấy thương bà hơn, một mình bà gánh vác hết mọi công việc còn lo cho con ở chiến khu, tôi cảm thấy bà như một vị anh hùng giàu tình yêu thương và đức hi sinh. Nên mọi việc gì trong nhà tôi có thể làm được thì tôi liền giúp bà như: cho gà ăn, lấy củi, hái rau ,… dù những công việc đó nhỏ nhưng cũng sẽ giúp hộ sinh được phần nào. Những ngày mà bà làm việc nặng, tới tối thủ công bà mỏi thì đôi đấm bóp cho bà, cho bà dễ chịu.

Ngày qua ngày tôi cùng bà nhóm bếp lửa. Một ngọn lửa chứa niềm tin và hình ảnh của bà . Mấy chục năm rồi mà bà vẫn thức khuya dậy sớm trải qua mưa nắng thế cục, tảo tần săn sóc tôi. Công việc của bà giản dị nhưng tôi vẫn hàm ân vô cùng như: bà nấu khoai, bà san sẻ tình làng nghĩa xóm. Bếp lửa đã cùng bà trải qua nắng mưa trong thế cục bà. Ôi bếp lửa giản dị nhưng riêng tôi cảm thấy đó là điều kì lạ thiêng liêng cao đẹp.

Bếp lửa còn là tình bà nồng ấm, bếp lửa gắn với những gian khổ, gian lao đời bà. Ngày ngày bà nhóm bếp lên, cũng giống như bà nhóm niềm vui niềm yêu thương dành cho tôi và mọi người . Bà không những là người nhóm lửa, mà còn là người truyền lửa truyền niềm tin cho mọi người .

Giờ đây tôi đã trưởng thành sống với những nơi có bếp gas, bếp điện. “Có ngọn khói trăm tàu, có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả “luôn hiện hữu trong tâm trí tôi với thắc mắc: “Mai này bà nhóm lửa lên chưa”. Ôi bếp lửa tình bà sao rét mướt tới tương tự ! Bếp lửa đã nuôi lớn tôi, giúp tôi trưởng thành như ngày ngày hôm nay. Bây giờ tôi chỉ muốn về với bên bà, được bà kể chuyện, được bà săn sóc yêu thương. Mỗi con người người nào cũng đều có cội nguồn để trưởng thành. Vì vậy mà tôi sẽ không bao giờ quên được cái hình ảnh người bà và bếp lửa đã nuôi dạy tôi trưởng thành như ngày ngày hôm nay.

Đóng vai người cháu kể lại câu chuyện bếp lửa – Mẫu 10

Tôi vẫn nhớ thi sĩ Nguyễn Duy đã từng viết:

“Thuở nhỏ tôi ra cống Na câu cá

níu váy bà đi chợ Bình Lâm

bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật

và thỉnh thoảng ăn trộm nhãn chùa Trần”

nhịn nhường như trong kí ức tuổi thơ của bao đứa trẻ, những tháng năm vô lo vô nghĩ bên người bà luôn là quãng thời gian êm đềm và thân yêu nhất. Vượt qua bao sự thăng trầm trong thế cục và sàng lọc của thời gian, những kỉ niệm mộc mộc ấy về bà vẫn đọng lại trong miền nhớ của biết bao tâm hồn, nó đưa ta về với khoảng trời xưa cũ bình dị mà an nhiên tự tại thuở niên thiếu. Với riêng tôi, có nhẽ kỉ niệm về bà bên bếp lửa bập bùng mỗi sớm mai luôn đi về trong cõi nhớ của tôi trên những chặng đường mà tôi trải qua. Nỗi nhớ ấy lại càng cồn cào da diết hơn trong những năm tháng sống xa xứ, đón những đợt gió tuyết nơi xứ sở Bạch Dương. Trong những phút giây tĩnh lặng,mỗi khi nhìn làn khói của những ngôi nhà phía xa kia , cả một trời thương nhớ  trong tôi lại ùa về , về bà về bếp lửa hồng sưởi ấm cả tuổi thơ tôi, về hương vị quê nhà…

Theo dòng hoài niệm, kí ức đưa tôi về với những đêm đen của cái đói mòn đói mỏi  năm 1945. Ngôi làng nhỏ nơi tôi sinh sống , nhà nào cũng rơi vào cảnh đói thê thảm. Trong những năm tháng cùng cực ấy , để tranh giành lấy sự sống ngày một thoi thóp , bố tôi phải lên phố xe thuê rạc cả người, dẫu vậy cũng chỉ đủ để rau cháo cầm khá mà sống qua ngày. Cái nghèo đói cùng cực của năm Ất Dậu ấy như một nỗi sợ hãi  trong tâm hồn non nớt của đứa trẻ bốn tuổi lúc đó.  Chính mùi khói bếp của bà đã mang tới cho tôi những khá ấm , sự an lòng  và xua đi cái mùi tử khí tràn ngập quanh ngõ xóm thôn nghèo. Thứ hương thơm dung dị như nhen lên từ tình yêu nồng hậu của bà đã sưởi ấm cho tôi trong suốt thuở thiếu thời để rồi sau này trên mỗi hành trình dài và rộng mà tôi qua , mùi khói bếp ấy vẫn làm tôi cay cay sống mũi mỗi khi hồi ức lại. Những năm tháng sau đó khi kháng chiến bùng nổ, bố mẹ tôi thoát ly gia đình đi làm cách mệnh, lên đường theo tiếng gọi của Tổ Quốc.

Suốt tám năm trời đằng đẵng tôi sống trong sự đùm bọc chở che của bà, bên bóng vía tảo tần của bà và bên bếp lửa hồng bà nhen lên mỗi sớm chiều. Những năm tháng thơ bé ấy, kế bên bà cháu tôi , kế bên bếp lửa vẫn còn một nhân chứng mà tôi không thể nào quên đó là chim tu hú. Tiếng hót của nó nghe sao mà chơ vơ lạc lõng như thèm khát được chở che ấp iu tới vậy. Tiếng tu hú khắc khoải như xé tan cả khoảng không gian mênh mông buồn vắng, thương con chim tu hú xấu số biết bao nhiêu tôi càng hàm ân và trân trọng những tháng ngày tuổi thơ hạnh phúc được bà chu đáo , bảo bọc bấy nhiêu. Bên bếp lửa bập bùng, tôi được nghe bà trải lòng về thế cục bà những tháng năm còn ở Huế.

Xem thêm bài viết hay:  Top 3 bài phân tích, cảm nghĩ Tục ngữ về thiên nhiên và lao động sản xuất hay nhất - Văn mẫu lớp 7

Một thế cục đầy truân chuyên và cùng cực. Bà gửi những hy vọng , ước mong về một tươi lai tươi sáng hơn trong tôi. Rồi cũng ở bếp lửa nơi góc bếp,bà chăm tôi từng bữa ăn giấc ngủ và là người thầy trước tiên dạy tôi những bài học quý giá trong thế cục. Những bài học làm người cao đẹp ấy đã trở thành một lợi thế vững chắc chắp cánh cho những giấc mơ cao đẹp trong thế cục . Thứ ánh lửa rét mướt nồng nàn ấy mang tới cho tầm hồn tôi một sự yên ủi trong những tháng ngày sống thiếu tình cảm của cha mẹ, bà như lợi thế ý thức cho tôi vững bước. Cuộc sống vẫn vậy, vẫn khắc nghiệt và luôn muốn thử thách bản lĩnh của con người. tới một ngày tiếng súng, tiếng bom của cuộc chiến tranh khắc nghiệt giội về làng tôi. Trước họng súng và ngòi nổ hủy diệt của quân địch, ngôi làng tôi lúc đó là một đống tro tàn, nhà cửa của mọi người đều hoàn toàn cháy rụi. Tôi biết lúc đó bà đang nuốt ngược nỗi đau và nước mắt vào trong.

Nơi chốn nương thân của hai bà cháu tôi không còn, nhưng nghị lực và ý chí thép được tôi rèn trong những năm tháng bể dâu của thế cục không cho phép bà tôi gục ngã buông xuôi. Bà rắn rỏi dắt tôi vượt qua hoàn cảnh ngặt nghèo. Tôi hiểu rằng những thiếu thốn, cùng cực mà tôi mới trải qua không thể nào đong đếm được với những gian lao , nhọc nhằn và nỗi thương nhớ con nơi chiến trường đỏ lửa đều phải nén lại vào trong của bà. Và rồi đâu rồi cũng vào đó , nhờ vào tình làng nghĩa xóm mà bà cháu tôi cũng dựng được ngôi nhà nhỏ trên nền đất cũ năm nào. Bà đã nhóm lên trong tôi ý chí và nghị lực sống trong thế cục này . Thật kì diệu bởi tôi tin rằng những gì bị thiêu cháy trong ngọn lửa hung tàn kia đã được hồi sinh trong bếp lửa của bà. Cứ thế  tuổi thơ tôi được bà chở che qua bao tháng năm. Chính ngọn lửa của lòng bà đã nhóm lên ngọn lửa dẻo dai , trường tồn theo dọc thời gian của bếp lửa kia.

Tháng năm làm tôi lớn lên và trưởng thành, những hoài bão đưa bước chân tôi tới với những chân trời xa nhưng không thể nào tôi quên được ngọn lửa hồng nơi góc bếp bởi nơi đó có tình yêu thương và đức hi sinh lặng thầm của người bà mà tôi dành cả thế cục mình để hàm ân và trân trọng, cũng chính tại nơi đó bà nhen nhóm lên trong tôi những ước mơ về một thế cục mới. nếu như những câu chuyện cổ tích là người bạn của bao tâm hồn thơ bé, thì bà chính là người viết lên câu chuyện cổ tích giữa thế cục này cho riêng tôi. Trong câu chuyện ấy là ánh lửa bập bùng sớm tối, là tình yêu nồng hậu của bà , là mùi nếp mùi sắn thơm hương, của quê hương xứ sở , và luôn là nơi mà tôi thuộc về…

Đóng vai người cháu kể lại câu chuyện bếp lửa – Mẫu 11

Mỗi lần đi ngang qua những cánh đồng của quốc gia Nga mênh mông, rộng lớn, tôi lại nhớ tới quê hương Việt Nam thân yêu của tôi. Nhất là vào những ngày tuyết rơi trắng xóa, thời tiết lạnh thấu xương, tôi run rẩy trong chiếc áo dày cộm ngồi bên lò sưởi. Nhưng lúc đó sao tôi lại thấy lò sưởi sao thân thuộc tới thế! Ngọn lửa rét mướt làm tôi nhớ tới cái bếp lửa của bà tôi quá!

Tôi sinh ra vào thời chiến tranh tao loạn, cái thời kì mà quốc gia bị chia cắt làm hai, cái thời kì mà quốc gia bị giày xéo bởi gót giày của giặc. Gia đình tôi có một truyền thống yêu nước nồng nàn, nên từ khi tôi còn bé, bố mẹ tôi đã luôn rời xa tôi để đi phục vụ Tổ quốc ở nơi chiến khu gieo neo, hiểm trở. Vì vậy tôi đã sống với bà từ những ngày thơ ấu. Tôi có những kỉ niệm không bao giờ quên với bà, đặc biệt là hình ảnh bà luôn gắn với cái bếp lửa ấp iu nồng đượm ấy. Bà thức dậy từ sớm tờ mờ để nhóm cái bếp lửa lởn vởn sương sớm, để nhóm lên cái ngọn lửa bởi tình bà cháu rét mướt, nồng đượm. Nghĩ về bếp lửa tôi lại thương bà tha thiết, sự tảo tần, vất vả của bà sao tôi có thể quên.

Còn nhớ lại cái năm tôi vừa mới lên bốn tuổi, năm ấy là năm 1945 – cái năm đói mòn đói mỏi. Tôi đã chứng kiến cái nạn đói len lỏi vào trong từng gia đình, gây nên cái chết thương tâm của hai triệu dân mình, cái chết như để thể hiện cho tội ác của chiến tranh, một thời kì khổ đau của dân tộc Việt Nam ta. Bố tôi thì đi đánh xe khô rạc ngựa gầy. Còn tôi thì vẫn ở với bà, bà nhóm bếp để khói xua tan cái mùi chết chóc. Nghĩ lại tới giờ sống mũi vẫn còn cay! Cay vì mùi khói! Cay vì một thời kì bi thương, đói khổ, chết chóc của dân tộc ta!

Tám năm ròng rã tôi cùng bà nhóm bếp, bà bao bọc, chở che tôi, bà dạy tôi làm, bà chăm tôi học. Tôi lớn lên trong sự dạy dỗ, khuyên bảo của bà. Nhớ tới mùa hè năm ấy, tu hú kêu trên những cánh đồng xa, tiếng tu hú nghe sao mà tha thiết thế! Tiếng tu hú như khơi dậy những hoài niệm, những nhớ nhung mong nhớ trong tôi. Bà hay kể cho tôi nghe những ngày ở Huế, tôi luôn hào hứng, thích thú những câu chuyện của bà, từng giọng nói rét mướt của bà chạm tới trái tim tôi, cho tôi biết thương cảm, yêu thương người khác hơn. Nghĩ tới đây tôi liền trách thầm những con tu hú sao không ở cùng bà mà lại kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?

Cuộc sống tưởng như yên bình trôi qua trong mắt đứa trẻ như tôi, nhưng không ngờ năm đó là năm giặc càn quét dữ dội, chúng để lại một kí ức in mãi trong tâm trí tôi. Chúng đốt làng cháy tàn cháy rụi, hình ảnh xóm làng lại trở về lầm lụi, may thay bà tôi sống có nghĩa có tình, được láng giềng đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh trên đống tro tàn. Lúc đó tôi sợ tới òa khóc, nói với bà rằng:” Cháu muốn viết thư cho bố mẹ để bố về nhà săn sóc, bảo vệ bà cháu mình “. vậy mà bà vẫn vững lòng, vẫn còn niềm tin vào cuộc đấu tranh của dân tộc. Bà dặn tôi đinh ninh rằng:” Bố ở chiến khu, vẫn còn việc bố, mày có viết thư chớ kể này kể nọ, cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”. Rồi sớm rồi chiều bà lại nhóm bếp lửa lên, nhóm lên tình bà thắm thiết, nhóm lên niềm tin dằng dai của bà vào cuộc sống, vào tương lai của quốc gia.

Ngày qua ngày bếp lửa vẫn được nhóm lên, nhóm lên niềm yêu thương ngọt bùi của khoai sắn, nhóm lên hương vị dẻo thơm của nồi xôi gạo mới sẻ chung vui, nhóm dậy cả tâm tình tuổi nhỏ. Ôi thật kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa! Bếp lửa kì lạ vì nó cháy lên trong mọi hoàn cảnh, dù nắng hay mưa, đói khát hay chiến tranh thì nó vẫn cháy lên. Nó chưa bao giờ tắt vì bất cứ lý do gì.

Bếp lửa thật thiêng liêng và nhiệm mầu, nó gắn liền với hình ảnh người bà đáng kính của tôi, nó cũng là hình ảnh cho hy vọng niềm thắng lợi của dân tộc tôi, cháy lên không bao giờ bị dập tắt, vẫn ấp iu nồng đượm, vẫn rét mướt đầy yêu thương. Giờ tôi đã đi xa, tiếp nhận được tri thức của nhân loại. Có ngọn khói trăm tàu, có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả. Nhưng không đâu bằng ngọn lửa của bà tôi, không niềm vui nào bằng những ngày ở cùng bà, bà ơi!

Nay tôi đang ở nơi đất khách quê người, nơi xa lạ, không người thân thiết làm tôi nhớ Tổ quốc, nhớ bà tha thiết. Ánh lửa lò sưởi bập bùng ngay trước mắt, nhưng không có mùi khói cay của bếp lửa bà tôi. Ôi bà ơi, con nhớ mùi khói cay và hình ảnh bếp lửa gắn bó với bà cháu mình, cháu chỉ muốn nhắc bà rằng : “Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa”.

Đóng vai người cháu kể lại câu chuyện bếp lửa – Mẫu 12

Ở một nơi xa xôi, ngồi một mình trong căn phòng nhỏ, hình ảnh bếp lửa rét mướt thân thuộc của tuổi thơ bỗng ùa về trong tâm trí của tôi. Hình ảnh bếp lửa thân thuộc của góc bếp Việt Nam, hình ảnh bếp lửa còn khiến tôi nhớ về bà.

Mỗi sáng sớm bà đều dậy nhóm lửa, ánh lửa cháy lên khởi đầu một ngày mới, bếp lửa ấy còn là nỗi vất vả sớm hôm không quản nắng mưa của bà. Nhớ lại hồi đó tôi mới bốn tuổi, mùi khói của bếp lửa cho tới giờ vẫn không thể quên, những năm tháng ấy là nạn đói của cả dân tộc, cả bố và mẹ đều phải đi công việc và nhiệm vụ nên chỉ có tôi ở nhà với bà. Ngày xưa mắt tôi nhèm vì làn khói bếp thì bây giờ sống mũi lại cay khi nhớ về nó. Trong suốt tám năm tôi sống cùng bà, tôi là người cùng bà nhóm lửa, cứ mỗi mùa tu hú kêu bà tôi lại kể chuyện những ngày ở Huế. Tiếng tu hú tha thiết như chính tình cảm thương yêu của bà, bà chăm lo cho tôi từng cái ăn, cái mặc, dạy tôi học, dạy tôi làm, tôi thương bà vất vả nên bà bảo gì tôi đều nghe. Nhớ năm giặc vào làng tôi đốt cháy cả nhà nhưng bà vẫn dặn tôi có viết thư không được kể linh tinh mà phải bảo nhà vẫn bình yên cho bố mẹ yên tâm công việc. Ngọn lửa bà tôi nhóm lên không đơn thuần là ngọn lửa cháy mà còn là ngọn lửa niềm tin, hy vọng. Cả thế cục bà suốt mấy chục năm ngày nào bà cũng dậy sớm nhóm lửa, tôi nhờ có ngọn lửa mà có niềm yêu thương, có khoai sắn ngọt bùi và cả những tâm tình tuổi thơ. Giờ đây khi đã đi xa tới miền đất xa lạ, có những niềm vui mới có rất nhiều tương lai thế nhưng tôi lại chẳng có bếp lửa và bà, trong lòng vẫn luôn khắc khoải thắc mắc “Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”.

Cả thế cục này tôi sẽ chẳng bao giờ quên được hình ảnh bếp lửa, cũng không thể nào quên được tình yêu thương vĩ đại, vô bờ bến mà bà đã dành trọn cả thế cục cho tôi.

Đóng vai người cháu kể lại câu chuyện bếp lửa – Mẫu 13

ngày hôm nay, tôi bắt gặp hình ảnh bếp lửa, thật khó để diễn tả những xúc cảm, trạng thái và ý thức của tôi lúc bấy giờ. Tôi chỉ nhớ rằng mình đã đứng ngây người trước bếp lửa đó và hình ảnh người bà thân yêu nhóm bếp lửa cho tôi lại sống lại trong tâm hồn.

Bếp lửa có từ bao giờ, tôi cũng không thể biết rõ, chỉ biết rằng từ khi tôi sinh ra đã thân thuộc với việc nhóm bếp lửa của bà. Ngày nắng to cũng như ngày mưa bão, chẳng ngày nào là bà không nhóm bếp, năm tôi bốn tuổi mùi khói đã trở nên thân thuộc, ám vào quần áo và cả tâm hồn. Giữa những năm 1945 sao mà cái đói lại đáng sợ tới thế, bố mẹ vất vả mưu sinh chỉ còn lại hai bà cháu nương tựa nhau mà sống. Khói bếp khi ấy làm nhèm mắt tôi nhưng bây giờ tôi lại bật khóc vì không được ngửi làn khói ấy.

Tám năm ròng rã, tôi cùng bà nhóm lửa, ngồi cạnh bà bên bếp lửa bà hay kể tôi nghe chuyện ngày còn ở Huế. Đã lâu rồi tôi không nghe thấy tiếng tu hú, nhớ về kỉ niệm sống với bà là quãng đời tuyệt đẹp, bà dạy tôi làm, bà bảo tôi học, bà chăm tôi ăn từng miếng ăn, giấc ngủ, thương bà vất vả tảo tần sớm hôm tôi chỉ biết chăm ngoan nghe lời. Ngày xưa khổ lắm người nào ơi, giặc tràn về đốt hết mái nhà tranh, khó khăn lắm mới dựng lại được, để cho bố mẹ yên tâm công việc bà vẫn dặn tôi không được nói về chuyện đó. tháng ngày cứ thế trôi qua, sáng nào bà cũng nhóm bếp, bà nhóm lên ngọn lửa yêu thương, niềm tin và hy vọng về tương lai tươi sáng, no đủ, sum vầy. Nhờ có bếp lửa của bà tôi thấu hiểu được nỗi long đong nắng mưa, dù thời thế có thay đổi trong suốt mấy chục năm bà vẫn giữ thói quen dậy sớm nhóm bếp lửa. Từ bếp lửa ấy có xôi có gạo, có khoai sắn ngọt bùi và có cả tâm tình tuổi nhỏ. Bếp lửa của bà kì lạ và thiêng liêng lắm, để bây giờ khi rời xa quê hương, tôi ở nơi miền đất mới nhiều điều tươi sáng nhưng vẫn không thể quên bếp lửa và bà.

Trưởng thành rồi ta lại muốn trở nên bé lại, được trở về với những đơn sơ, ngây dại. Sẽ chẳng có gì có thể nói hết được tình yêu của tôi với bà và với quê hương Việt Nam.

Đóng vai người cháu kể lại câu chuyện bếp lửa – Mẫu 14

Mỗi năm mùa đông tới, phải ngồi bên lò sưởi, ngồi nhìn ngọn lửa cháy tôi lại nhớ tới bếp lửa thân thuộc nơi quê nhà. Ở Việt Nam có bếp lửa, có bà hàng ngày nhóm lửa, ngọn lửa nơi đất khách quê người này dù có to và sáng tới đâu cũng không thể rét mướt và giàu tình thương như ngọn lửa của bà.

Xa quê hương rồi tôi mới thấm thía nỗi nhớ quê, nhớ gia đình và người bà yêu kính. người nào cũng có quê hương và có những kỉ niệm với nơi sinh ra và lớn lên ấy, đối với tôi cái tôi nhớ nhất bây giờ là bếp lửa lởn vởn sương sớm, bếp lửa ấp iu nồng đượm của bà. Bà tôi – một người có đức hy sinh cao cả, cả một đời lo cho con cho cháu, tôi nhớ bếp lửa của bà, cái bếp khiến tôi quen mùi khói khi bốn tuổi. Cái nghèo đói năm 1945 ấy cả đời tôi sẽ chẳng quên được, bố đi đánh xe khô rạc cả người, cái đói mòn mỏi quanh quẩn bên bếp lửa của bà, làn khói hun nhèm mắt mà bây giờ nghĩ lại khiến tôi cay sống mũi.

Tám năm ròng rã tôi cùng bà nhóm bếp lửa, thường ngồi bên bếp nghe văng vẳng tiếng tu hú kêu, chẳng biết bà còn nhớ không, những câu chuyện bà bà kể cho tôi ngày còn ở Huế. Vì cha mẹ bận công việc không về, cuộc sống tôi quanh quẩn bên bà, bà cho tôi được ăn ngủ, học hành, dạy bảo tôi từng thứ nhỏ nhặt và cả những điều sâu xa, cao cả. Giống như năm mà giặc tới đốt nhà tôi, cơ sự nghiêm trọng ấy nhưng cũng chỉ mình bà gánh vác, bà không muốn con cái phải lo lắng nên dặn tôi có viết thư cho bố phải bảo ở nhà vẫn bình yên. Tu hú ơi, tu hú còn kêu nữa hay không, hãy thay tôi tới ở cùng bà, san sẻ những long đong vất vả của bà, cùng bà sớm chiều nhen lên bếp lửa. Trong lòng bà luôn có một ngọn lửa đã ủ sẵn, đó là ngọn lửa niềm tin, yêu thương, cho nồi xôi gạo thơm ngon, cho củ khoai sắn ngọt bùi, chỉ cần bếp lửa bà nhóm lên là bao tâm tình tuổi nhỏ trong tôi lại trỗi dậy. Tiếc thay tôi không còn được kế bên bếp lửa kì lạ và thiêng liêng ấy, lựa chọn lựa đi xa quê hương, rời xa bà tôi thầm tiếc nuối quãng thời gian được bà ủ ấp, vỗ về yêu thương, được cùng bà nhóm lên bếp lửa.

Ở chốn phồn hoa nhưng xa lạ tôi luôn khắc khoải một niềm thương nhớ về bà, về tình yêu và sự hy sinh của thế cục bà. Vẫn là thắc mắc tôi rất muốn được hỏi bà “Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”.

Bài thơ Bếp lửa nằm trong chương trình Tự học có hướng dẫn, để có thể học và khai thác tốt những tri thức văn học có trong tác phẩm này những em có thể tham khảo thêm những đề văn liên quan như: Cảm nhận về bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt, tìm hiểu hình ảnh bếp lửa trong bài thơ Bếp lửa, tìm hiểu khổ 2 bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt, Bình giảng bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt.

Trên đây là 14 bài văn mẫu đóng vai người cháu kể lại câu chuyện bếp lửa. những em học sinh có thể tham khảo những bài văn mẫu hay tại Cmm.edu.vn, từ đó bổ sung vào quỹ tư liệu học tập của mình.

Bản quyền bài viết thuộc trường THPT thành Phố Sóc Trăng. Mọi hành vi sao chép đều là gian lận!

Nguồn chia sẻ: Trường Cmm.edu.vn (thptsoctrang.edu.vn)

Viết một bình luận