Phát biểu cảm nghĩ về những bài ca dao trào phúng hay nhất
Đề bài: Chọn một số bài ca dao trào phúng và nêu cảm nghĩ của em về chúng.
Bài giảng: Những câu thơ trớ trêu – Cô Trương San (giáo viên )
Trong ca dao, dân ca, ngoài những câu ca dao ân tình, những câu tự sự, còn có nhiều câu mang nội dung hài hước, trào phúng nhằm vạch trần những hiện tượng nghịch lý, phê phán những thói hư tật xấu. thói hư tật xấu, những con người và hiện tượng nghịch lý, những thói hư tật xấu, những con người và hiện tượng đáng cười trong xã hội. Sau đây là một số bài dân ca nổi tiếng:
1. Đứa nào lội qua ao, Ôi cô đào lấy chú? Cậu tôi hay nhậu hay tăm, Hay chè đặc, hay ngủ trưa. Ngày mong ngày mưa, Đêm mong trống thêm. 2. Số chị không giàu thì nghèo. Ngày ba mươi Tết, trong nhà treo thịt. Số phụ nữ có cha và mẹ, mẹ, phụ nữ và cha là đàn ông. Số cô có chồng mà có chồng, Con đầu lòng không gái không trai. 3. Con cò chết trên cây. Cò con mở lịch xem ngày của ma. Ca cường uống rượu la đà, Chi chí ríu rít bò ra chia phần, Chào mào, đánh trống quân, Chích cởi trần, vác mỏ đi rao giảng. 4. Anh ấy đội một chiếc mũ với chiếc áo khoác dày. Ngón đeo nhẫn được gọi là he cai. Ba năm lỡ chuyến, áo ngắn đi mượn, quần dài đi thuê.
Những câu thơ trào phúng phê phán những thói hư tật xấu qua một số hình ảnh ẩn dụ, tượng trưng và qua giọng điệu châm biếm gây cười.
Bài đầu tiên là giới thiệu và quảng cáo về nhân vật chú tôi. Bức chân dung của người chú là một bức tranh biếm họa được vẽ hoàn toàn bằng những nét vẽ mỉa mai và châm biếm.
Hai câu mở đầu: Con cò lội qua ao, Này em có lấy anh không em làm nhiệm vụ bắt vần và chuẩn bị cho phần giới thiệu nhân vật.
Chiếc yếm đào là sự tương phản với hình ảnh nhân vật bác tôi. Chiếc yếm đào tượng trưng cho những cô gái thôn quê trẻ trung, xinh đẹp. Xứng đáng để lấy yếm đào là chàng trai chăm chỉ, tài giỏi chứ không phải người nhiều tật xấu.
Con cò giới thiệu chú mình bằng một giọng cố tỏ ra khoa trương và trịnh trọng: Chú tôi hay uống rượu hay cắm tăm, Hay uống nước chè đặc, hay ngủ trưa. Ý nghĩa của phê bình và chỉ trích nằm trong từ tốt. Trong dân gian, giỏi có nghĩa là tài, nhưng trong ngữ cảnh này nó có nghĩa ngược lại. Nghĩ hay làm hay làm, ai mà sợ uống rượu chè đến mức nghiện và buông thả. Sự trớ trêu của từ tốt chứa một ý nghĩa sâu sắc hơn. Tuổi trẻ sức dài vai rộng mà không chí thú làm ăn, chấp nhận kiếp tầm gửi thì không đáng mặt đàn ông. Người xưa có câu: Làm trai cho đáng mặt nam nhi, xuống Đoài động yên, về Đoài yên lặng… để khẳng định bản lĩnh đàn ông. Bên cạnh đó, còn có câu: Đời người ngắn một gang tay, Ai ngủ ngày có nửa tấc với nội dung phê phán những người làm việc cần cù. Nhân vật chú tôi trong bài thơ trên là một người như thế.
Ca dao đã cụ thể hóa sự lười biếng của tính cách chú tôi thành những điều ước không tự nhiên: Ngày ước những ngày mưa, Đêm ước thêm đêm được ngủ tự do. Thế là ngoài nghiện rượu, nghiện chè, chú tôi còn nghiện… ngủ (!) Rõ ràng là người có nhiều tật xấu, rất đáng cười.
Thông thường, để tạo mối lương duyên cho ai, bà mối phải nói hay, nói tốt cho người đó. Nhưng trong bài hát này thì ngược lại. Bài ca dao sử dụng ngôn ngữ hài hước, châm biếm để giới thiệu nhân vật chú tôi – điển hình của những kẻ vô dụng, bất tài. Có cô gái nào đủ dũng cảm để trao thân cho những “ông chồng” như vậy không?
Ca dao thứ hai vang vọng lời thầy bói nói với thầy bói. Nó chỉ “ghi nhận” một cách khách quan chứ không đưa ra bất kỳ nhận xét, đánh giá nào. Đây là nghệ thuật dùng “gậy ông đập lưng ông” có tác dụng gây cười và trào phúng sâu sắc.
Hãy thử nghe xem thầy bói nói gì? Thầy nói toàn những điều quan trọng mà các thầy bói (phụ nữ) rất quan tâm: giàu – nghèo, cha – mẹ, chồng – con. Mỗi điều anh nói đều hùng hồn và rất cụ thể. Thật buồn cười khi anh ấy nói điều đó một cách mâu thuẫn (!). Ông khẳng định chắc như đinh đóng cột về những điều hiển nhiên mà con người nào cũng có thể nhìn thấy và biết được, không cần được thần linh mách bảo qua miệng lưỡi linh hoạt uyển chuyển của mình.
Dân gian tin rằng con người có số. Mỗi người có một số phận khác nhau, có người giàu, người nghèo, kẻ sang, kẻ hèn. Thầy bói phán: Ai không giàu thì nghèo, nghĩa là dù thế nào đi nữa, lời thầy đều đúng (!) Nói về ba ngày Tết, có câu tục ngữ: Đói quanh năm, no ba. những ngày giáp Tết. Dù giàu hay nghèo, mỗi gia đình đều cố gắng lo miếng thịt, đĩa xôi để cúng ông bà tổ tiên, đó là lẽ đương nhiên. Nhà cô Ba mươi Tết treo thịt trong nhà, chắc chắn là tôi không nhầm (?!)
Tính chất mỉa mai, mỉa mai của câu ca dao được đẩy lên cao trào ở lời thầy giáo nói về cha mẹ: Số con gái có mẹ cha Số mẹ đàn bà, bố đàn ông Số phận: Số đàn bà có con Lấy vợ, Sinh con đầu lòng con, không phải con gái thì là con trai. Điệp ngữ “Những con số” được đặt ở đầu mỗi câu và lặp đi lặp lại nhiều lần khiến người đọc tưởng tượng thầy bói ra vẻ trang nghiêm, linh thiêng nhưng thực chất là một chiêu trò để moi tiền những người nhẹ dạ cả tin. , thậm chí tin tưởng. Tiếng cười và sự chỉ trích nổi lên từ đó. Có câu tục ngữ châm biếm những kẻ lười biếng, chuyên lường gạt dụ dỗ người khác: Thầy đi xem bói cho người, Có thầy thả ruồi bay.
Sự mập mờ trong bài báo đã bộc lộ bản chất giả dối của những kẻ hành nghề mê tín dị đoan, lợi dụng lòng tin của người khác để kiếm tiền. Bài ca dao cũng phê phán thói mê tín mù quáng của nhiều người trong xã hội đương thời. Với nội dung tích cực như vậy, cho đến nay, bài hát vẫn còn nóng hổi với ý nghĩa thời sự.
Bài ca dao thứ ba miêu tả một đám ma theo phong tục xưa. Mỗi con vật tượng trưng cho một kiểu người, một hạng người trong xã hội. Con cò tượng trưng cho người nông dân nghèo khổ. Ca Cường tượng trưng cho những người có máu mặt như lý trưởng, chánh tổng và các chức dịch trong làng. Tiếng chim hót líu lo, chào mào gợi nhớ đến bọn thống trị, binh lính và tay sai. Chim chích giống như một người chuyên lo việc làng trong truyền thuyết chèo cổ.
Người xưa chọn loài vật để “đóng vai” như vậy nhằm mục đích mượn thế giới loài vật để nói về xã hội loài người (giống như truyện ngụ ngôn). Mỗi con vật với những đặc điểm riêng là hình ảnh sinh động đại diện cho từng loại người trong xã hội phong kiến đương thời. Vì vậy, nội dung trào phúng, phê phán của ca dao trở nên kín đáo, sâu sắc hơn.
Khung cảnh được miêu tả trái ngược với cảnh thường thấy ở một đám tang. Cuộc nhậu vui vẻ, lộn xộn diễn ra trong không khí tang tóc. Con cò có thể chết vì đói khát, vì bệnh tật, nhưng cái chết thê thảm của nó lại bị biến thành cơ hội béo bở cho những kẻ bất nhân, vô tâm. Bài hát châm biếm tục ăn chay trong xã hội cũ. Tàn dư của hủ tục ấy vẫn còn tồn tại, chúng ta cần phê phán mạnh mẽ để loại trừ nó ra khỏi đời sống văn minh.
Ca dao thứ tư miêu tả chân dung viên cai lệ – người đứng đầu bọn thị vệ canh giữ và phục vụ ở các phủ, huyện ngày xưa. Chỉ cần vài nét vẽ cơ bản, bức tranh biếm họa sống động về chân dung cậu bé đã hiện ra trọn vẹn trước mắt người đọc.
Đầu tiên phải kể đến vẻ ngoài ngổ ngáo của chàng trai. Chiếc mũ lông vũ trên đầu cho thấy anh ta là một người lính, nhưng chi tiết về ngón tay đeo nhẫn của anh ta lại cho thấy sự phô trương, ra dáng và trẻ con của anh ta. Tính cách này còn được miêu tả trong một số câu ca dao khác, chẳng hạn: Chú Cải buông áo cho tôi, Cho em đi chợ kẻo chợ trưa…
Thỉnh thoảng, khi được quan phủ, huyện cử đi làm một công việc nào đó, dù là việc vặt, hắn cũng coi đó là dịp để phô trương “quyền lực” của mình. Khốn khổ về mặt hình thức, anh chẳng có gì để khoe với thiên hạ. Vì thế anh phải làm lụng vất vả mới có đủ quần áo: áo ngắn mượn, quần dài thuê. Chính cái ăn mặc xập xệ, tạm bợ ấy đã nói lên thân phận nhỏ bé đáng thương của một người đầy tớ nơi công cộng. Dù vậy, hắn vẫn ra sức khoe mẽ, vênh váo, mượn oai hùm bắt nạt dân nghèo thấp cổ bé họng.
Nghệ thuật châm biếm trong ca dao này rất đặc sắc. Người xưa châm biếm theo cách gọi kẻ thống trị là kẻ thống trị, nghe qua thì tưởng là kính trọng nhưng thực ra đó là thái độ châm biếm, phê phán thói tự cao tự đại, lố bịch của những kẻ có chút quyền thế. , dù là vụn vặt, tầm thường. (Cai: chức thấp nhất trong quân đội thời phong kiến).
Chân dung của ông chỉ được phơi bày trong hai dòng lục bát và cái gọi là quyền hành của ông đối với mọi thứ chỉ có bấy nhiêu thôi. Bài ca dao miêu tả chân dung nhân vật bằng một vài “điểm chỉ” rất chọn lọc và tâm đắc. Qua trang phục và công việc, anh hiện lên là một chàng trai vui tính, hài hước.
Tác giả dân gian đã sử dụng rất thành công nghệ thuật phóng đại để châm biếm cái gọi là quyền lực và thân phận khốn cùng của cai. Chi tiết: Ba năm một chuyến lầm đường là phóng đại. Mượn áo ngắn, thuê quần dài cũng bị làm lố. Nhưng đằng sau câu nói đùa ấy lại là một sự thật khác: Ông lão tự bỏ tiền ra thuê quần áo, chắc “ông” phải tìm cách kiếm lại tiền cho chuyến đi lầm đường suốt 3 năm trời. Một lần.
Xưa kia, khi tiếp xúc với quan quân, dân nghèo thường bị chúng sách nhiễu. Vì vậy, họ rất hiểu và coi thường hạng người này. Ngôn ngữ biếm họa thể hiện thái độ mỉa mai, khinh miệt của nhân dân đối với bọn tay sai của giai cấp phong kiến thống trị.
Đọc đoạn thơ trên, ta không chỉ hả hê trước thái độ mỉa mai, đả kích của người dân lao động mà còn vui mừng trước đời sống tinh thần phong phú, niềm lạc quan yêu đời của họ. Sức sống mãnh liệt của dân ca bắt nguồn từ niềm tin bất diệt đó.
Các bài giải bài tập lớp 7 sách mới có:
nhung-cau-hat-cham-biem.jsp
Giải bài tập lớp 7 theo sách mới môn học