Đề bài: Đọc Cảm hứng thu của Đỗ Phủ để thấy cảnh và tình trong tác phẩm
Bài văn mẫu tìm hiểu bài Cảm hứng ngắm cảnh và yêu tác phẩm của Đỗ Phủ
Phân công
Cảm hứng của Đỗ Phủ (poster 1) là một bài thơ tiêu biểu, rất sâu sắc, cô đọng và kín đáo. Trong thơ, tâm và cảnh, thơ và họa, động và tĩnh đan xen, nhiều khi khó phân biệt.
Có thể tạm chia bài thơ thành hai phần với bốn câu đầu là Cảnh thu và bốn câu cuối là Nỗi lòng của nhà thơ. Cách chia tương đối phù hợp về logic hình thái nhưng chưa thực sự đi sâu vào mối quan hệ biện chứng giữa hai phần bài thơ. Chúng ta biết rằng đặc điểm của thơ cổ nói chung và thơ Đường nói riêng là cái nhìn thống nhất giữa con người và vũ trụ (“Trời nhân tương phùng”). Cái “tôi” (tiểu ngã) chỉ là một phần của cái “tôi” (đại ngã) vũ trụ. Bởi vậy, thi nhân xưa nói “cảnh” cũng là nói “tâm”, nói “tâm” thường qua vẽ “cảnh”. Các nhà thơ cổ đại Trung Quốc thường nhắc đến mối quan hệ này. Đó là “Tâm nhập cảnh” (Vương Xương Linh) “Tâm nhập cảnh” “Cảnh tình gặp cảnh” (Yên Hoàng đạo) “Người tình không gặp cảnh”, “Cảnh tình không gặp”. ”, “Tức cảnh sinh tình” (Vương Phủ Phi). Ngay trong bốn câu đầu, qua những nét chấm phá tả cảnh đã bộc lộ góc nhìn đầy tâm trạng của nhà thơ. Chỉ có điều, cảnh ở đây đưa lối như được vẽ bằng nét bút có phần rõ ràng, “khách quan” hơn bốn câu thơ sau. Các bài thơ có một thời: mùa thu; Có (địa điểm: Vu Sơn, Vu Giáp (thuộc thượng nguồn sông Dương Tử, vùng Quý Châu tỉnh Tứ Xuyên) Khung cảnh ở đây cũng có phần cá tính hóa với màu sắc hùng vĩ và độc đáo: núi non hiểm trở, sóng tung bọt trời, mây sà xuống đất .Cảnh hiện ra dần dần như trong một thước phim tua nhanh Con ong đậu đầu từ cây phong sương trắng (Ngọc Lựu Thượng Phong Thược Lâm), (chữ ”lấp ló’ trong bản dịch không sát lắm nghĩa gốc), đến cảnh núi Vụn cuồn cuộn, dần đến bọt sóng tung lên trời giữa sông rồi đọng lại mây đen chạm đất. -Tranh tô màu với lối vẽ tài tình.Cảnh hiện lên trong cái “thần”,cái hồn của nó.Tâm trạng ấy thể hiện trước hết ở sự lựa chọn khung cảnh.Nhà thơ xưa không đặt nhiệm vụ khám phá đối tượng mình quan sát (dù bên trong hoặc bên ngoài) mà là sắp xếp, cắt tỉa sao cho phù hợp với tỷ lệ i nhận thức cuối cùng. Thơ xưa không phân biệt chủ thể và khách thể. Ngay điểm đột phá đầu tiên “Ngọc Lộ Thương Phong Thương Lam” đã mở ra hướng lựa chọn. Cảnh móc trắng phá cả rừng phong làm ta liên tưởng đến những rừng phong khác, những cây phong trong thơ cổ. Cây phong trong thơ Đường dường như gắn liền với nỗi buồn chia ly. Trong “Hoàng hậu hiu quạnh”, trong Truyện Kiều của Nguyễn Du cũng có “Rừng phong thu nhuốm màu quan trường” tất cả đều đìu hiu trong mắt Kiều.
Những dòng tiếp theo cảnh nhường chỗ như muốn khắc sâu thêm nét hoang vắng, hiu quạnh, buồn bã trong tâm hồn nhà thơ. Đành rằng, cảnh sắc nơi đây cũng có nét hùng vĩ, nhưng vẻ hùng vĩ không thể lấn át được cái buồn bã, mục nát, buồn bã, u uất tràn từ núi xuống rừng.
Hai câu tiếp theo đối lập nhau về ý và từ, tạo nên một khung cảnh tương phản trong bức tranh “Giang hồ, Bá lăng kiêm thiên dung – Hồi đầu thu đất” (Lưng trời sóng vỗ rùng mình giữa lòng sông – Mặt đất mây phủ kín.- Xa xa) cho ta ấn tượng ngược lại: Cảnh vừa dữ dội, vừa hùng tráng, vừa bức bối, bị vây hãm không lối thoát. Đúng là “tâm trạng” trong ánh mắt của một người xa quê nhớ quê, buồn da diết, nặng trĩu, đồng thời cũng bất an, bức bối, khắc khoải khi nhìn quê, nhìn cảnh. thế giới. Kim Thánh Thần quả là có lý khi nhận xét rằng: “Ngẩng đầu nhìn sông thì thấy sóng cao ngút trời, mà nhìn ra biển chỉ thấy mây gió đất liền. trái tim hoàn toàn trống rỗng.”
Bốn câu sau tác giả tiếp tục phát triển cảm nghĩ của mình. Ở đây, cảm nhận trực tiếp hơn, cụ thể hơn nhưng vẫn tĩnh lặng, kín đáo. Quan điểm duy lý đã trừu tượng hóa những sự vật cụ thể. Tác giả nói về hoa cúc, đến con thuyền, nhưng là “tâm” hay “cảnh”, chân thực khác nhau. “Tùng cúc di khai tha nhật lệ” (Cúc cúc nở hai lần: giọt nước mắt ngày trước) và “Cô chủ nhật chủ nhất cô viễn tâm” (Con thuyền cô đơn buộc lòng thương nhớ vườn xưa), nơi lời nhiều hay ít, không rõ hoa cúc rơi nước mắt hay nhà thơ rưng rưng bên hoa cúc, không hiểu duyên thuyền hay duyên người. Hồ Sĩ Hiệp cho rằng những câu thơ này có thể hiểu theo hai cách: “Cúc nở hai lần, hai lần lệ cũ chảy” hoặc có thể hiểu “Nhìn cúc nở, tưởng như cúc đã rơi lệ”. Dù thế nào, ta cũng thấy ở đây “cánh” đã phai thành “tâm”, “liên tưởng” thành “tâm”. Tác giả đã xác định: tình và cảnh, hiện tại và quá khứ (giọt lệ hiện tại cũng là giọt lệ quá khứ), sự vật và con người (sợi bê tông và sợi cước dày). So sánh với tình huống mà nhà thơ có thể hiểu được Đỗ Phủ kể từ khi rời kinh đô đến Quý Châu, đã hai năm hai mùa thu. “Giọt nước mắt xưa” của nhà thơ không chỉ “tuôn” một lần mà đá nhiều lần. Và đúng là có người thụ hưởng trong thơ của ông cụ Thiếu Lãng, đã già nơi cằn cỗi, cảm được tiên hoa…
Hai câu kết của bài thơ này thật độc đáo, mở ra nhiều ý nghĩa. Trong thơ Đường, hai câu kết thường là bộc lộ cảm xúc, bộc lộ cảm xúc một cách trực tiếp, nhưng ở đây tác giả lại hướng nó ra khung cảnh khách quan bên ngoài. Nhưng ở đoạn đầu, cảnh khách quan là “tĩnh”, sau đó là cảnh đày ải là “động”. Khung cảnh càng tấp nập hơn trong không khí “hối hả may áo đông” và tiếng chày giã áo buổi chiều trên thành Bạch Đế. Nhịp thơ cũng nhanh hơn, gấp gáp hơn. Tuy nhiên, đó chỉ là cảnh bên ngoài, lòng nhà thơ có lẽ không hề thay đổi. Vì góc nhìn của nhà thơ vẫn là cái nhìn trong ánh chiều mờ ảo. Tiếng áo đập vào buổi chiều trên cao ấy Bạch (Bài chày phố vang bóng tà) dễ dẫn người ta đến những liên tưởng buồn. Nó ngân nga như hòa vào điệu nhạc buồn của nhịp tà áo đêm trăng của người thiếu phụ nhớ chồng trong Đảo Y của Lí Bạch (Áo đêm đập bóng trăng), hay tiếng chày của người đàn bà. con dơi. về mùa thu trong thơ Bạch Cư Dị (Mùa thu đến nhớ chồng đánh tơ, hoa em trăng đầy đá) Tiếng chày khua báo hiệu một mùa đông sắp đến, một mùa đông có một (thiếu cơm, thiếu của) cơm áo, không nhà cửa, lưu lạc nơi xứ người mà lòng luôn nặng trĩu những âu lo, nhớ nhung.
Tương tự như vậy, trên cái nền của cảnh thu với rừng thu, khí trời thu, hoa thu, âm thanh mùa thu, nhà thơ đã hòa vào đó tâm trạng của chủ thể trữ tình, một tâm trạng đượm buồn, ưu tư, sầu muộn, xao xuyến. trong nặng tình quê và nỗi lo thầm kín về thế sự..
——-HẾT——–
Sau khi đã đọc xong bài thơ Cảm hứng của Đỗ Phủ để thấy cảnh và lòng yêu tác phẩm, các em có thể vào tìm hiểu Cảm nhận bài thơ Giờ của Đỗ Phủ hoặc tham khảo Cảm nhận bài thơ Thu Hương để củng cố kiến thức của mình.
Bản quyền bài viết thuộc về trường THPT TP Sóc Trăng. Mọi sao chép đều là gian lận!
Nguồn chia sẻ: Trường Cmm.edu.vn (thptsoctrang.edu.vn)