Đề bài: tìm hiểu bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc để làm vượt bậc vẻ đẹp của hình tượng những người nghĩa sĩ nông dân yêu nước
4 bài văn mẫu tìm hiểu bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc để làm vượt bậc vẻ đẹp của hình tượng những người nghĩa sĩ nông dân yêu nước
I. Dàn ý tìm hiểu bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc để làm vượt bậc vẻ đẹp của hình tượng những người nghĩa sĩ nông dân yêu nước (Chuẩn)
1. Mở bài
– Giới thiệu khái quát về “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” của tác giả Nguyễn Đình Chiểu.– Nêu đánh giá chung về vẻ đẹp của hình tượng những người nghĩa sĩ nông dân yêu nước.
2. Thân bài
a. Vẻ đẹp của người nông dân nghĩa sĩ trong cuộc sống thường nhật– Họ chỉ là những người nông dân hiền lành, chất phác sau “lũy tre làng”, gắn bó với cuộc sống “dãi nắng dầm mưa”, “hai sương một nắng”.– Những công việc binh đao hoàn toàn lạ lẫm đối với họ: “Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng”.
b. Vẻ đẹp của người nông dân nghĩa sĩ khi quốc gia bị xâm lược– Trong họ luôn ý thức và rực sáng ngọn lửa của ý thức yêu nước: “Mùi tinh rán vấy vá đã ba năm, ghét thói mọi như nông gia ghét cỏ.”– Họ là những người nông dân có ý thức yêu căm thù giặc sâu sắc: “… Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan; ngày xem ống khói chạy đen xì, muốn ra cắn cổ”– Họ tự nguyện đứng lên đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược bằng ý thức can đảm, quả cảm: “Nào đợi người nào đòi người nào bắt, phen này xin ra sức đoạn kình – Chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ”.
c. Vẻ đẹp của người nông dân nghĩa sĩ trong trận nghĩa đánh Tây – những người nông dân đã tham gia trận nghĩa đánh Tây với tư thế hiên ngang, ý thức kiên cường, quật cường.-Dù bước vào cuộc chiến với vũ khí, trang bị thô sơ nhưng họ tranh đấu với tâm thế can đảm, đầy nhiệt huyết và khí thế sục sôi: “đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không”, “xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có”.
3. Kết bài
Khái quát về trị giá của hình tượng người nông dân nghĩa sĩ yêu nước.
II. Bài văn mẫu tìm hiểu bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc để làm vượt bậc vẻ đẹp của hình tượng những người nghĩa sĩ nông dân yêu nước
1. Bài mẫu số 1: tìm hiểu bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc để làm vượt bậc vẻ đẹp của hình tượng những người nghĩa sĩ nông dân yêu nước (Chuẩn)
“Ngôi sao Nguyễn Đình Chiểu, một thi sĩ lớn của nước ta, đáng lẽ phải sáng tỏ hơn trong bầu trời văn nghệ của dân tộc, nhất là trong lúc này” (trích “Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc”, Phạm Văn Đồng). Lời nhận định của tác giả Phạm Văn Đồng đã thể hiện sự ngưỡng mộ, trân trọng, đề cao đối với tài năng của cụ đồ Nguyễn Đình Chiểu – gương mặt vượt bậc tiêu biểu đại diện cho những thành tựu của nền văn học trung đại Việt Nam. Một trong những đóng góp vượt bậc của Nguyễn Đình Chiểu là xây dựng thành công bức tượng đài bất hủ về những người nghĩa sĩ nông dân yêu nước thông qua tác phẩm “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”. Ra đời vào năm 1858 – thời khắc thực dân Pháp khởi đầu nổ súng xâm lược nước ta tại cửa biển Đà Nẵng, tác phẩm đã phác họa bức chân dung những người nông dân đã hi sinh can đảm trong cuộc nổi dậy chống thực Pháp vào ngày 15 tháng 11 năm Tân Dậu.
Hướng dẫn tìm hiểu Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc để làm vượt bậc vẻ đẹp hình tượng người nông dân yêu nước
Trước hết, tác giả đã tái tạo vẻ đẹp của người nông dân nghĩa sĩ trong không khí căng thẳng và sục sôi của thời đại: “Súng giặc đất rền, lòng dân trời tỏ”. Chỉ với tám chữ nhưng tác giả Nguyễn Đình Chiểu đã khắc họa thành công cuộc đụng độ lịch sử giữa bước chân của quân thù xâm lược và ý thức yêu nước kiên cường, quật cường của nhân dân ta thông qua kết cấu đối lập: “súng giặc/ lòng dân, đất rền / trời tỏ”. Giữa bối cảnh khẩn trương đó, vẻ đẹp của người nông dân – nghĩa sĩ hiện lên trong sự so sánh giữa bối cảnh xưa và nay:
“Nhớ linh xưa:Cui cút làm ăn; toan lo nghèo túng,Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung;Chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ.Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm;Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng”
Trước khi trận nghĩa đánh Tây diễn ra, họ chỉ là những người nông dân hiền lành, chất phác sau “lũy tre làng”, gắn bó với cuộc sống “dãi nắng dầm mưa”, “hai sương một nắng”. Những công việc binh đao hoàn toàn lạ lẫm đối với họ: “Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng”. Phải chăng vì gắn bó với ruộng đồng, quê hương nên trong họ luôn ý thức và rực sáng ngọn lửa của ý thức yêu nước: “Trông tin quan như trời hạn trông mưa
Mùi tinh rán vấy vá đã ba năm, ghét thói mọi như nông gia ghét cỏ.… Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan; ngày xem ống khói chạy đen xì, muốn ra cắn cổ”
Trong giây phút quốc gia lâm nguy, triều đình hèn nhát, nhu nhược, những người nông dân vẫn giữ vững ý thức trách nhiệm đối với quê hương thông qua thái độ căm thù giặc sâu sắc. Những câu văn của tác giả Nguyễn Đình Chiểu đã gợi nhắc tới tấm lòng căm thù giặc sâu sắc của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn: “Ta thường tới bữa quên ăn , nửa đêm vỗ gối , ruột đau như cắt , nước mắt đầm đìa, chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa ta cũng vui lòng” (Trích “Hịch tướng sĩ”). Không cần đợi tới sự lãnh đạo, kêu gọi, họ tự nguyện đứng lên đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược bằng ý thức can đảm, quả cảm: “Nào đợi người nào đòi người nào bắt, phen này xin ra sức đoạn kình – Chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ”.
Với ý thức sẵn sàng hi sinh tính mệnh, xả thân vì sự nghiệp bảo vệ dân tộc, những người nông dân đã tham gia trận nghĩa đánh Tây với tư thế hiên ngang, ý thức kiên cường, quật cường, không hề run sợ trước mũi súng của quân thù. Dù bước vào cuộc chiến với vũ khí, trang bị thô sơ: “manh áo vải”, “ngọn tầm vông”, “rơm con cúi”, “lưỡi dao phay” nhưng với ý thức yêu nước mãnh liệt, họ tranh đấu với tâm thế can đảm, đầy nhiệt huyết và khí thế sục sôi: “đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không”, “xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có” qua những hành động quyết liệt “Kẻ đâm ngang, người chém ngược”,… Tác giả Nguyễn Đình Chiểu đã vận dụng thành công trường từ vựng diễn tả hành động nhanh, mạnh, dứt khoát như “đạp”, “lướt”, “xô”, “xông”, “đâm”, “chém” để phác họa vẻ đẹp ngoan cường, can đảm của người nông dân nghĩa sĩ. Bởi vậy, dù cuộc nổi dậy của họ thất bại nhưng cùng ý chí đấu tranh của họ đã tạo nên một bài ca về sự thắng lợi của ý thức yêu nước và để lại sự xót thương, đớn đau trong lòng những người dân Việt Nam yêu nước.
tương tự, qua những gì đã tìm hiểu, chúng ta có thể thấy được vẻ đẹp của những người nông dân nghĩa sĩ thông qua ý thức yêu nước, ý chí tự nguyện đứng lên đấu tranh chống lại giặc ngoại xâm cũng như tư thế hiên ngang, can đảm trong trận mạc. Dưới ngòi bút “Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm – Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà” của cụ Đồ Chiểu, bức chân dung của người nghĩa sĩ nông dân trong trận nghĩa đánh Tây với vẻ đẹp bi tráng.
—————– Hết bài 1 —————–
kế bên việc tham khảo bài mẫu tìm hiểu vẻ đẹp hình tượng của người nông dân nghĩa sĩ trong bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, để học tốt môn Ngữ văn lớp 11, những em cần tham khảo bài tìm hiểu cảnh đợi tàu của hai chị em Liên trong Hai đứa trẻ, tìm hiểu truyện ngắn Chữ người tử tù, tìm hiểu hai câu thơ cuối bài thơ Thương vợ của Trần Tế Xương, bình giảng bài Bài ca ngất ngưởng của Tú Xương,…
2. Bài mẫu số 2: tìm hiểu bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc để làm vượt bậc vẻ đẹp của hình tượng những người nghĩa sĩ nông dân yêu nước
Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) một nhà nho yêu nước nồng nàn, căm thù giặc sâu sắc. thế cuộc ông phải trải qua nhiều thảm kịch khổ đau và xấu số. có nhẽ vì vậy mà hơn người nào hết ông càng cảm nhận được nỗi đau mất nước khi thực dân Pháp sang xâm lược nước ta. Năm 1859 giặc Pháp tràn vào sông Bến Nghé chiếm thành Gia Định, ông phải vào quê vợ ở Thanh Ba, Cần Giuộc lánh tạm. Về phía thực dân Pháp sau khi chiếm được thành Gia Định chúng khởi đầu thực hiện quá trình mớ rộng cuộc tiến công ra những vùng phụ cận. Cần Giuộc chẳng mấy chốc đã bị giặc Pháp tràn tới. những người nông dân áo vải, chân lấm, tay bùn đã đứng dậy đấu tranh. Họ gia nhập nghĩa quân, sẵn sàng hi sinh vì nghĩa lớn. Trong số họ nhiều nghĩa sĩ đã hi sinh oanh liệt. Những tấm gương hi sinh đó đã gây nên niềm cảm kích lớn trong nhân dân. Đỗ Quang, tuần vũ Gia Định ủy quyền Nguyễn Đình Chiểu làm bài văn tế đọc tại buổi truy điệu hơn hai mươi nghĩa sĩ đã hi sinh trong trận ngày đêm 16-12-1861. Với lòng cảm phục và tình cảm xót thương vô hạn, Nguyễn Đình Chiểu đã viết bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc. Bài văn tế không những thể hiện được tình cảm xót thương vô hạn của tác giả và của nhân dân đối với những nghĩa sĩ cần Giuộc mà còn khắc họa lên vẻ đẹp trung thực, bi tráng mà rất đỗi hào hùng của những người nông dân yêu nước đánh Tây.
hỡi ơi!Súng giặc đất rền; lòng dân trời tỏ…
Khi Tổ quốc lâm nguy, khắp quốc gia đều rền vang tiếng súng. Chính từ sự gian nguy, đau thương đó, tình yêu quốc gia của những người nông dân thông thường mới được thể hiện, vẻ dẹp thực sự của tâm hồn trong họ mới được phân bua cùng trời đất.
Tấm lòng, tình yêu giang sơn, tổ quốc của những người nông dân bình dị càng được thể hiện một cách rõ rệt và sâu sắc hơn khi tác giả đã liên tục sử dụng giải pháp so sánh đối lập trong những câu văn tiếp sau.
Nhớ lính xưa:Cui cút làm ăn; toan lo nghèo túng,Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung;Chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ.Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm;Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó…
Bài văn tìm hiểu hình tượng người nghĩa sĩ nông dân yêu nước trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
Trước đây họ vẫn sống, vẫn tồn tại nhưng chỉ là “cui cút làm ăn”. Họ vẫn sống, vẫn tồn tại nhưng chỉ trong thầm lặng. Trong cuộc sống, họ có nỗi toan lo “miếng cơm manh áo” giản dị đời thường; họ chỉ quen làm lụng việc nông gia: cày, bừa, cấy, hái, làm bạn với con trâu, với ruộng đồng. Họ chưa biết tới “cung ngựa”, “trường nhung”, chưa quen với “tập mác, tập cờ”. những người nghĩa sĩ ở đây chỉ là những nông dân áo vải, chưa quen trận mạc, chưa được luyện rèn, chỉ vì lòng yêu chính ghét tà mà đứng lên đánh giặc.
trong khi “tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng”, họ ngóng trông mệnh lệnh của triều đình: “trông tin quan như trời hạn trông mưa”.
Thì ra cái thảm kịch xót xa là ở chỗ này: triều đinh nhu nhược, không hiểu được lòng dân yêu nước. Lòng căm thù giặc của những người nông dân thì không thể kiềm chế:
Mùi tinh rán vấy vá đã ba năm, ghét thói mọi như nông gia ghét cỏ.…Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan; ngày xem ống khói chạy đen xì, muốn ra cắn cổ.
Hình tượng người nông dân, những người nghĩa sĩ yêu nước hiện lên thật quả cảm hào hùng. Lòng yêu quốc gia tha thiết xuất phát từ chính trái tim của họ đã khiến cho họ trở nên đẹp đẽ, nhấp nhánh.
Vẻ đẹp của những người nghĩa sĩ nông dân yêu nước được toát ra chính từ lòng căm thù giặc sục sôi. Chính lòng căm thù giặc đã biến thành hành động vùng lên quật khởi rất hào hùng.
Nào đợi người nào đòi, người nào bất, phen này xin ra sức đoạn kinh:Chẳng thèm trốn ngược, trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.
Trong những tác phẩm phản đối chiến tranh phong kiến phi nghĩa trước đây, người nông dân khi phải đi làm lính biên thú phương xa để bảo vệ cương thổ của nhà vua, họ ra đi với tâm trạng và thái độ “bước chân xuống thuyền, nước mắt như mưa” thì ở đây, người nông dân của Nguyễn Đình Chiểu lại hoàn toàn khác. Họ tự giác, tự nguyện đứng lên tranh đấu để bảo vệ giang sơn, tổ quốc, ấy là nét đẹp bản tính nhất trong hành động của người nông dân – nghĩa sĩ Cần Giuộc. tới đây không chỉ vẻ đẹp trong tâm hồn mà ngay cả vẻ đẹp trong hành động của những người nghĩa sĩ nông dân yêu nước cũng đã được Nguyễn Đình Chiểu khắc họa lên một cách rõ rệt. Từ cái động lực ý thức tự nguyện gánh vác trách nhiệm lịch sử mà đã tạo ra cho họ sức mạnh vô cùng lớn. Họ đã hành động, đứng lên chông giặc ngoại xâm. Không chờ bày bố mà chỉ “ngoài cật có một manh áo vải nào dại mang bao tấu, bầu ngòi, trong tay cầm một ngọn tầm vông, chi nài sắm dao tu, nón gõ”. hình tượng người nông dân được hiện lên trong tác phẩm khiến cho chúng ta vừa cảm thấy tự hào và xen lẫn niềm xót xa. những người nghĩa sĩ nhường như đóng vai trò là hiện thân của cả một sức mạnh dân tộc. Đối mặt với quân thù vững mạnh với “đạn nhỏ, đạn to”, “tàu thiếc, tàu đồng” với đội quán xâm lược nhà nghề, vậy mà vũ khí để họ sử dụng chống lại chỉ là “một manh áo vải”, “một ngọn tầm vông”, chỉ có “lưỡi dao phay” và chỉ là những “hỏa mai đánh bằng rơm con cúi”. Thử hòi rằng đem những thứ đó ra đối lập với súng đạn của thực dân khác nào bước chân vào chỗ chết. Cái sự thực phũ phàng đó như phô bày ra trước mắt ta thật xót đau biết mấy. Đó là tấn thảm kịch của những người nghĩa sĩ Cần Giuộc, cũng là tấn thảm kịch của cuộc sống nước ta vào thời kì nghiệt ngã ấy. Tấn thảm kịch này đã đưa tới cái họa mất nước kéo dái cả thế kỉ
Nhưng cũng chính từ cái tấn thảm kịch này mà đà làm sáng ngời lên vẻ đẹp hình tượng của những người nghĩa sĩ nông dân yêu nước. Bằng sự ngoan cường, lòng yêu nước nồng nàn, họ đã làm nên được những điều phi thường, chính họ đã đựng lên dược bản anh hùng ca chiến tranh của dân tộc. Bất chấp sự nghiêm trọng, bất chấp sự chênh lệch, sự đối lập của hoàn cảnh tranh đấu, họ vẫn quyết đấu và quyết thắng, lấy ý thức xả thân vì nghĩa để bù đắp lại sự thiếu hụt, chênh lệch của mình với quân thù. Hoàn cảnh tranh đấu chênh lệch là vậy nhưng vì những người nghĩa sĩ chiến đâu bằng chinh ý thức sự quyết đấu không sợ hi sinh nên hiệu quả tranh đấu lại vô cùng lớn.
Chỉ với những vũ khí thô sơ như:Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia,Gươm đeo sử dụng bằng lười dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ.Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà ma ni hồn kinh..
Chỉ với những vũ khí thô sơ, nhưng lòng yêu nước, ý thức dân tộc đã tạo nên được những điều kì diệu. hình tượng người nghĩa sĩ nông dân hiện lên với một vẻ đẹp rực rỡ hào quang của chủ nghĩa yêu nước, nhường như đã làm lu mờ đi cái thời kì đen tối của lịch sử mất nước hồi nửa cuối thế kỉ XIX.
Bài văn tế như bức tượng đài bằng ngôn từ, tạc khác nên hình tượng những người nghĩa sĩ nông dân hào hùng mà bi tráng, tượng trưng cho ý thức yêu nước, căm thù giặc ngoại xâm của tổ tiên ta. Bức tượng đài ấy là dấu mốc thể hiện cả một thảm kịch lớn của dân tộc – thảm kịch mất nước, và báo hiệu một thời kì lịch sử đen tôi của dân tộc ta – thời kì một trăm năm Pháp thuộc. Nhưng thật hào hùng, trong cái thảm kịch lớn ấy, ý thức quật cường của nhân dân Nam Bộ nói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung vẫn ngời sáng bởi cái lí tưởng cao đẹp của nghĩa sĩ cần Giuộc – họ sẵn sàng hi sinh vì nghĩa lớn, vì dân tộc.
3. Bài mẫu số 3: tìm hiểu bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc để làm vượt bậc vẻ đẹp của hình tượng những người nghĩa sĩ nông dân yêu nước
Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc là đỉnh cao sáng tác của thi sĩ Nguyễn Đình Chiểu và cũng là tác phẩm biểu hiện tập trung nhất, sâu sắc nhất tư tưởng yêu nước, thương dân của ông. Với lòng thương cảm và khâm phục tình thật, thi sĩ đã dựng nên một tượng đài nghệ thuật bất hủ về người anh hùng nghĩa sĩ nông dân trong thời kì lịch sử tranh đấu chống ngoại xâm của dân tộc. Có thể nói bài Văn tế là khúc ca bi tráng về người nghĩa sĩ nông dân dám xả thân vì sự sống còn của quốc gia.
Vẻ đẹp trước hết ở họ là ý thức tự nguyện đánh giặc, vốn là những người nông dân quanh năm cui cút làm ăn, điều toan lo hằng ngày của họ là làm sao cho đủ ăn đủ mặc, đừng đói khổ, rách rưới. Họ biết thân phận mình là hèn mọn trong xã hội, ngoài sưu thuế phài nộp cho đủ, họ đâu dám nghĩ tới công to việc lớn. Quốc gia đại sự là của vua quan và triều đình. Vậy mà giờ đây, giặc Lang Sa tràn sang cướp nước, gieo rắc tanh hôi (tinh rán) đã ba năm mà mặt mũi quan quân chẳng thấy ở đâu, có chăng nữa thì chi là lũ hèn nhát chạy dài. Cảnh tượng ấy khiến họ không thể bưng tai bịt mắt làm ngơ. Lòng yêu nước nung đúc từ nghìn xưa trong huyết quản sục sôi, họ tự nguyện đứng lên đánh giặc:
Nào đợi người nào đòi người nào bắt, phen này xin ra sức đoạn kình; chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.
Họ nhận về mình công việc vô cùng khó khăn, to lớn: đoạn kình, bộ hổ, tức là đánh lại quân giặc mạnh hơn mình gấp bao lần.
tìm hiểu bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc để thấy được tình yêu nước, ý thức quật cường của những người nghĩa sĩ dân dân Cần Giuộc
Vẻ đẹp ý thức của họ là dám đánh, dám hi sinh; một lòng xin ra sức, ra tay, cống hiến sức mình cho Tổ quốc. Tịnh thần dám đánh, dám hi sinh ấy càng đẹp biết bao nhiêu khi họ chi là những người dân ấp dân lân, tự liên kết thành hàng ngũ để tranh đấu chứ không phải là quân lính của triều đình. Từ cửa nếp nhà tranh của mình, họ xông thẳng vào trận, không hề được tập dượt mảy may. Tỉnh thần ấy lại thêm lớn lao khi nhìn vào vũ khí trong tay họ. Có thể nói, trang bị sắc bén của họ chính là tấm lòng yêu nước và nghĩa lởn vì nước, chứ rơm con cúi, lưỡi dao phay, gậy tầm vông làm sao đem đối lập được với súng song tâm, với tàu thiếc tàu đổng. Cái sắc bén, cái sức làm thịt giặc của nó chi là ở trái tim, ở dũng khí của người cầm dao, cầm gậy vẻ đẹp của họ thật hào hùng, nhưng kế bên cái hào hùng ấy lại là nỗi đau, nỗi thương muốn rơi nước mắt!
Vậy mà ta hãy xem họ xung trận. Bao nhiêu lời văn là bấy nhiêu chất hùng ca, hừng hực khí phách, rực lửa tranh đấu của một trận đánh quyết liệt và can đảm:
Hoả mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia; gươm đeo sử dụng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ.Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà ma ni hồn kinh, bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu sắt tàu đồng súng nổ.
Quả là tuyệt vời! người nào đó đã sử dụng một cách nói rất đắc (chứ không phải đắt) là hình tượng người nghĩa sĩ nông dân cực nhọc, nghèo túng đã hiện lên thành một hình tượng anh hùng lồng lộng giữa chiến trường, làm chủ trận đụng độ, áp đảo tất cả. Lưỡi dao phay, ngọn tầm vông của họ đâm ngang chém ngược, vùng vẫy, hiên ngang chiếm lĩnh cả không gian trận địa, làm cho giặc hồn kinh phách lạc. Tiếng hè, tiếng ó của họ át cả tiếng đại bác bỏ của tàu thiếc tàu đồng. Rơm con cúi, lưỡi dao phay cũng đốt xong đồn giặc, cũng chém rớt đầu quan hai giặc. Đoạn văn đầy những động từ, những cụm động từ mô tả hành động mãnh liệt, hào khí bừng bừng. Trước những con người anh hùng ấy, quân giặc hung tợn với súng đạn ngông nghênh đều như co rúm lại, thấp bé, tồi tàn tới thảm hại. Có thể nói hình bóng người nghĩa sĩ nông dân cần Giuộc nổi lên trên nền trời rực lửa, sừng sững như một tượng đài kì vĩ.
xúc cảm chủ đạo của bài Văn tế là xúc cảm bi tráng, lời văn rắn rỏi, âm điệu sồi sục, dồn dập. Nghệ thuật đối đã phát huy hiệu quả cao nhất của nó. Tất cả hợp thành một âm hưởng trận mạc hào hùng, phấn khích của một thiên anh hùng ca tuyệt diệu. Ngòi bút tác giả hoàn toàn xứng đáng với hành động cao cả của người nghĩa sĩ nông dân, với những tư tưởng vô cùng lớn lao mà tác giả đã phát hiện ra trong hành động tự nguyện làm thịt giặc cứu nước của họ. sắp ba chục nghĩa sĩ nông dân bỏ mình trong cuộc tranh đấu khốc liệt và không cân sức. Cái chết bi tráng của họ khiến thiên nhiên và con người thảy đều tiếc thương: Đoái sông Cần Giuộc, cỏ cây mấy dặm sầu giăng; nhìn chợ Trường Bình, già trẻ hai hàng lụy nhỏ. Người chết vì quốc gia, vì dân tộc, hỏi làm sao không xúc động tới đồng bào, núi sông?!
Tượng đài nghệ thuật về người nghĩa sĩ nông dân mang tính chất bi tráng. Nó được dựng lên trong nước mắt, trong tiếng khóc thống thiết của thi sĩ và của nhân dân. Đây là thành công nghệ thuật xuất sắc của thi sĩ mù yêu nước Nguyễn Đình Chiểu. Bài Văn tế như một tấm bia, một cái mốc, một tượng đài vinh quang về người nông dân Nam Bộ anh hùng, về nhân dân lao động muôn thuở sáng ngời.
4. Bài mẫu số 4: tìm hiểu bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc để làm vượt bậc vẻ đẹp của hình tượng những người nghĩa sĩ nông dân yêu nước
Nguyễn Đình Chiểu là nhà văn tài hoa khi đã nêu lên hình tượng người nông dân trong văn học mà trong suốt những thời gian qua chưa được nhắc tới thông qua bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc. Trong bài văn tế, hình tượng người nông dân được khắc hoạ rõ ràng. Hình ảnh người nông dân nghèo khổ chỉ biết làm ăn một cách thầm lặng, quanh năm chỉ biết ruộng trâu, chuyên lao động động. Họ là những người nông dân yêu ghét rõ ràng, căm thù quyết không đội trời chung với giặc khi thực dân Pháp xâm lược. Họ đã can đảm tranh đấu và can đảm hi sinh, trong lời văn là những lời lẽ bi thương đầy nước mắt nhưng không hề rơi nước mắt. Đó chính là cái hay của thơ văn Nguyễn Đình Chiểu.
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc ra đời vào năm 1858, khi thực dân Pháp nổ súng vào Đà Nẵng, Việt Nam. Sau khi chiếm được thành Gia Định vào đầu năm 1859, quân Pháp khởi đầu một quá trình mở rộng tiến công ra những vùng phụ cận như Tân An, Cần Giuộc, Gò Công… Ngày 15 tháng 11 năm Tân Dậu, những nghĩa sĩ mà là nông dân, vì quá căm phẫn kẻ ngoại xâm, đã dũng cảm đứng lên tranh đấu tập kích đồn Pháp ở Cần Giuộc, xoá sổ được một số quân của đối phương và viên tri huyện người Việt đang làm cộng sự cho Pháp. Khoảng mười lăm nghĩa sĩ bỏ mình. Những tấm gương đó đã gây nên niềm xúc động lớn trong nhân dân. Theo yêu cầu của tuần vũ Gia Định là Đỗ Quang, Nguyễn Đình Chiểu làm bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”, để đọc tại buổi truy điệu những nghĩa sĩ đã hi sinh trong trận đánh này.
Như chúng ta biết thì “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là một “Tác phẩm nghệ thuật” hiếm có. “Bi tráng” là tầm vóc và tính chất của tác phẩm nghệ thuật ấy: vừa hoành tráng, hùng tráng, vừa thống thiết, bi người nào. Hùng tráng ở nội dung tranh đấu vì nghĩa lớn. Hùng tráng ở phẩm chất anh hùng, ở đức hi sinh quyết tử. Hùng tráng ở chỗ nó dựng lên một thời đại sóng gió dữ dội, quyết liệt của quốc gia và dân tộc.
tìm hiểu bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc để làm vượt bậc hình tượng người nghĩa sĩ nông dân
Mở đầu bài văn tế là hai tiếng “hỡi ơi!” vang lên thống thiết, đó là tiếng khóc của thi sĩ đối với nghĩa sĩ, là tiếng nấc đau thương cho thế nước hiểm nghèo:
“Súng giặc, đất rền; lòng dân trời tỏ” có ý tức là Tổ quốc lâm nguy, súng giặc nổ vang rền trời đất và quê hương.
Trong cảnh nước mất nhà tan, chỉ có nhân dân đứng lên gánh vác sứ mệnh lịch sử, đánh giặc cứu nước cứu nhà. Và người nông dân chỉ biết cui cút làm ăn một cách tội nghiệp đã dũng cảm đứng lên đánh giặc giành lại nền độc lập cho Tổ quốc thân yêu mà sự dũng cảm đó xuất phát từ tấm lòng yêu nước có trong mỗi con người. Tấm lòng yêu nước, căm thù giặc của những người nông dân, của những người áo vải mới tỏ cùng trời đất và sáng ngời chính nghĩa. hình tượng chính của bài Văn tế chính là những đội viên nghĩa quân Cần Giuộc.
Nguồn gốc của họ là nông dân nghèo sống thế cuộc “cui cút” sau luỹ tre làng. Chất phác và hiền lành, chuyên cần là chịu thương chịu khó trong làm ăn, quanh quẩn trong xóm làng, làm bạn với con trâu, đường cày, sá bừa, rất xa lạ với cung ngựa trường nhung:
“Nhớ linh xưa:Cui cút làm ăn; toan lo nghèo túng”
Cui cút làm ăn: tức là làm ăn lẻ loi, thầm lặng một cách tội nghiệp.Dù mỏi mệt hay vất vả thì họ vẫn lặng thầm, lặng lẽ chịu đựnng một mình mà chẳng nói với người nào. “Cui cút làm ăn; toan lo nghèo túng” đã hiện lên đầy đủ một vòng đời không lối thoát của người nông dân Việt, người “dân ấp dân lân” Nam Bộ. khởi đầu bằng cui cút, vật lộn làm ăn, toan lo để cuối cùng kết thúc trong nghèo túng.Họ là những người nông dân mà quanh năm chỉ biết làm với làm, chưa hề biết tới cái gì gọi là cung, cái gì gọi là ngựa.
“Chưa quen cung ngựa đâu tới trường nhung; chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ”.
Họ là lớp người đông đảo, sống sắp gũi quanh ta. Quanh năm chân lấm tay bùn với nghề nông, “chưa hề ngó tới” việc binh và vũ khí đánh giặc:
“Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm; tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ mắt chưa từng ngó”.
Thế nhưng khi quốc gia quê hương bị giặc Pháp xâm lược, những người dân chân lấm tay bùn ấy đã đứng lên tự nguyện làm quân tự nguyện đánh giặc cứu nước cứu nhà, bảo vệ cái nghề làm lụng mà họ coi là bát cơm manh áo của họ là cái nghĩa lớn mà họ “mến” là theo đuổi
“Bữa thấy bong bong che trắng lốp, muốn tới an gan; ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ”.
Đối với giặc Pháp và lũ tay sai bán nước, họ chỉ có 1 thái độ: “ăn gan” và “cắn cổ”,chỉ có 1 chí hướng: “phen này xin ra sức đoạn kình…, chuyến này dốc ra tay bộ hổ”.
Trong tác bài Văn Tế Nguyễn Đình Chiểu đã có khắc nên sự đối lập giữa đoàn dũng sĩ của quê hương và giặc Pháp xâm lược. Giặc xâm lược được trang bị tối tân, có “tàu thiếc, tàu đồng”, “bắn đạn nhỏ, đạn to”, có bọn lính đánh thuê “mã tà, ma ní” thiện chiến. Trái lại, trang bị của nghĩa quân lại hết sức thô sơ. Quân trang chỉ là “1 manh áo vải”. Vũ khí chỉ có “một ngọn tầm vông”, hoặc “một lưỡi dao phay”, một súng hoả mai khai hoả “bằng rơm con cúi”. vậy mà họ vẫn lập được chiến công: “đốt xong nhà dạy đạo kia” và “chém rớt đầu quan hai nọ”.
Bài Văn tế đã tái tạo lại những giờ phút giao tranh khốc liệt của những đội viên nghĩa quân với giặc Pháp:
“Chi nhọc quan quản gióng trống kì, trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không; nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có.”
“Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho ma ní, mã tà hồn kinh; bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu thiếc, tàu đồng súng nổ”.
Không khí trận mạc nổi tiếng trống thúc quân thúc giục, “có bọn hè trước, lũ ó sau” vang dậy đất trời cùng tiếng súng nổ. những nghĩa sĩ của ta coi cái chết như không, tiến công như vũ bão, vùng vẫy giữa đồn giặc: “đạp rào lướt tới”, “xô cửa xông vào”, “đâm ngang chém ngược”, “hè trước, ó sau”. Giọng văn của Nguyễn Đình Chiểu đã tô đậm ý thức dũng cảm, kiên cường quật cường của những nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc. Ông cũng thể hiện rõ lòng khâm phục đối với người nghĩa sĩ nông dân. Từ trước tới nay, đây là tác phẩm trước hết có đưa hình ảnh của nghĩa sĩ nông dân
Trong bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” còn nổi tiếng khóc của mẹ già nơi quê nhà trông chờ con về, vợ thương nhớ về chồng, con ngóng cha về ngh thống thiết, bi người nào. Nhiều nghĩa sĩ đã ngã xuống trên chiến trường trong tư thế người anh hùng:
“Những lăm lòng nghĩa lâu sử dụng; đâu biết xác phàm vội bỏ”quốc gia, quê hương vô cùng tiếc thương. Một không gian rộng lớn ngậm ngùi, đớn đau:“Đoái sông Cần Giuộc, cỏ cây mấy dặm sầu giăng; nhìn chợ Trường Bình, già trẻ 2 hàng kuỵ nhỏ”.Tiếng khóc của người mẹ già, nỗi đớn đau của người vợ trẻ, nỗi thương nhớ của con cái được nói tới vô cùng xúc động:“đớn đau bấy mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều; não nùng thay vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ”.
những nghĩa sĩ đã sống can đảm tranh đấu, và hi sinh rất vẻ vang. Tấm gương tranh đấu và hi sinh của họ là để ta biết rằng quốc gia nào cũng là độc lập, tự chủ. Không người nào được quyền xâm chiếm. Họ là tấm gương sáng rất đáng tự hào:
“Ôi!Một trận khói tan; nghìn năm tiết rỡ”
Sự hi sinh của những người nghĩa sĩ Cần Giuộc là bài học quý báu mà họ đã để lại. Thà chết vinh còn hơn sống nhục. Họ là tấm gương sáng để dân tộc Việt Nam noi theo mà làm, là ngòn đèn soi sáng cho dân tộc Việt Nam.
“Sống đánh giặc, thác cũng đánh giăc, vong hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp nguyện được trả thù kia;…”.
Công lao của người nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc sẽ đời đời kiếp kiếp nằm trong lòng mỗi người dân Việt Nam về tấm gương can đảm, sẵn sàng xả thân vì độc lập Tổ Quốc.
“Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo, thương vì hai chữ thiên dân; cây hương nghĩa sĩ thắp thêm thơm, cám bởi một câu vương thổ”.
Tóm lại, “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” khẳng định tấm lòng yêu thương dân thiết tha của Nguyễn Đình Chiểu. “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là niềm tự hào và hàm ơn sâu sắc của nhân dân ta đối với người nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc đã can đảm tranh đấu chống giặc ngoại xâm bảo vệ nền độc lập vững chắc của quê nhà, nơi họ đã sinh ra và lớn lên hay đó là Tổ quốc mà đối với họ “nó” rất quan trọng trong thế cuộc. Nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc chính là tấm gương về ý thức dũng cảm, lòng yêu nước sâu sắc để cho những thế hệ đi sau khi đọc được bài văn tế này mà noi theo để xây dựng quốc gia càng ngày giàu mạnh hơn.
————— Hết —————-
Trên đây là chi tiết 4 bài văn mẫu tìm hiểu bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc để làm vượt bậc vẻ đẹp của hình tượng những người nghĩa sĩ nông dân yêu nước hay, đặc sắc mà Cmm.edu.vn soạn, tổng hợp được. Hy vọng những bài viết trong danh sách những bài văn hay lớp 11 này sẽ là nguồn tài liệu hữu ích, giúp những em hoàn thành tốt những đề văn tìm hiểu bài văn, bài thơ trong chương trình học của mình. Chúc những em thành công!
Bản quyền bài viết thuộc trường THPT thành Phố Sóc Trăng. Mọi hành vi sao chép đều là gian lận!
Nguồn chia sẻ: Trường Cmm.edu.vn (thptsoctrang.edu.vn)