Đề bài: tìm hiểu tính dân tộc trong 8 câu đầu bài thơ Việt Bắc
tìm hiểu tính dân tộc trong 8 câu đầu bài thơ Việt Bắc
I. Dàn ý tìm hiểu về tính dân tộc trong 8 câu đầu bài thơ Việt Bắc (Chuẩn)
1. Mở bài
Giới thiệu bài thơ Việt Bắc và 8 câu đầu của bài thơ
2. Cơ thể
Một. Khái quát hoàn cảnh sáng tác: + Sáng tác năm 1954, khi Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, Trung ương Đảng và các đồng chí cách mạng rời chiến khu Việt Bắc trở về Hà Nội. + Việt Bắc là lời khẳng định tình cảm thủy chung, tha thiết của người cách mạng người về với nhân dân và chiến khu Việt Bắc.
b. Tính dân tộc trong 8 câu thơ đầu:
– Tính dân tộc thể hiện qua 8 câu thơ: + Thể thơ lục bát tha thiết, giàu nhạc tính + Cách đối đáp, xưng hô – ta quen thuộc trong ca dao => Tố Hữu đã tái hiện sinh động cảnh chia tay đồng thời khiến lời thơ ngọt ngào, tha thiết như một lời tâm sự.
– Bốn câu đầu: Lời của người ở lại + “Ta – ta” là danh từ thường dùng trong ca dao, ở đây dùng để chỉ người cách mạng (người ra đi) và chiến khu (người ra đi). người ở lại). ).+ câu hỏi tu từ “Về mình có nhớ anh không” mở ra khung cảnh chia ly và cuộc trò chuyện thân tình, nhớ nhung giữa nhân dân chiến khu với các nhà cách mạng. → Gợi kỉ niệm và không gian cội nguồn, sự thủy chung giữa người đi và người ở. + Từ “mình” được lặp lại hai lần trong khổ thơ với sự xuất hiện của nhiều thanh điệu bằng nhau khiến cho câu thơ như trùng xuống, vừa xúc động vừa khắc khoải, + Sự từ “nhớ” được lặp lại 4 lần càng làm sâu sắc thêm nỗi nhớ da diết, nỗi nhớ da diết không nỡ rời xa.=> Người ở lại đặt câu hỏi tu từ như nhắc nhở người ra đi nhớ về tình cảm, kỉ niệm với Việt Bắc, đồng thời khẳng định sự chân thành, tha thiết cảm xúc.
– Bốn câu thơ sau: Lời tâm sự của người ra đi + “Tiếng ai” ở đây là đại từ bất định, nó có thể là tiếng của một nhân vật xuất hiện trong buổi tiễn biệt, cũng có thể là lời đầy luyến tiếc của người Việt Bắc nói chung. + Các từ láy “bâng khuâng, trăn trở, thiết tha” đã tái hiện một cách xúc động cảm xúc hoài niệm của người cách mạng. → Nỗi nhớ nhà như tiếng lòng dồn nén nhưng cũng vô cùng mãnh liệt trong trái tim mỗi người cách mạng. + Ở câu 7, 8, nhịp thơ thay đổi linh hoạt 3/3, 3/3/2 gợi tâm trạng bối rối, bước chân ngập ngừng như nếu muốn. Hình ảnh “áo chàm” không chỉ gợi màu áo quen thuộc, giản dị mà còn gợi những tình cảm thủy chung son sắt, màu áo không bao giờ phai trong lòng người. người cách mạng.+ Sự lưu luyến, nhớ nhung còn thể hiện ở sự ngập ngừng, muốn nói mà lại thôi “Nắm tay nhau biết nói gì hôm nay”.
3. Kết luận
Tổng quan
II. Bài văn mẫu về tình dân tộc trong 8 câu đầu bài thơ Việt Bắc (Chuẩn)
Tố Hữu là nhà thơ trữ tình chính trị nổi tiếng của nền thơ ca cách mạng Việt Nam. Anh thường viết về những sự kiện trọng đại của dân tộc với tâm hồn sôi nổi, nhiệt huyết và tình cảm tha thiết của một người lính trẻ. Bởi vậy, khi viết về chính trị, thơ Tố Hữu không khô khan mà sâu lắng, tha thiết. Bên cạnh cảm hứng trữ tình, tính dân tộc cũng là một nét tiêu biểu trong thơ Tố Hữu. Việt Bắc là một trong những đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác của Tố Hữu, đây cũng là kết tinh tiêu biểu nhất cho tài năng và phong cách trữ tình chính trị của ông. Tính dân tộc và cảm hứng trữ tình trước hết được thể hiện rõ nét trong tám câu thơ khi vừa khắc họa nỗi nhớ nhung da diết của cuộc chia ly, đồng thời thể hiện nỗi nhớ da diết, thủy chung của người đi kháng chiến. chiến tranh với nhân dân và đất đai chiến khu.
Sau chiến dịch Điện Biên Phủ thắng lợi, Hiệp định Giơnevơ được ký kết. Tháng 10 năm 1954, Trung ương Đảng và các đồng chí cách mạng rời chiến khu Việt Bắc trở về Hà Nội. Việt Bắc ra đời trong hoàn cảnh đặc biệt đó, bài thơ ra đời như một lời khẳng định tình cảm chung thủy, tha thiết của người đi với người ở lại.
“Ta về có nhớ ta Mười lăm năm ấy thiết tha, Ta về có nhớ không, nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”.
Chọn thể thơ lục bát và lối đối thoại quen thuộc trong ca dao, nhà thơ Tố Hữu đã tái hiện sinh động cảnh chia ly, đồng thời khiến lời ca ngọt ngào, tha thiết như một lời tâm sự. “Ta – ta” là danh xưng thường dùng trong ca dao, ở đây dùng để chỉ người cách mạng (người ra đi) và chiến khu (người ở lại). Ta cũng đã bắt gặp cách gọi này trong ca dao xưa như:
“Em về, anh không để em đi, anh cầm vạt áo viết câu thơ”
Hoặc:
“Khi em về anh có nhớ Em về như khăn quàng nhớ em”
Sử dụng điệp ngữ “me-ta” quen thuộc trong ca dao khiến câu thơ ngọt ngào, sâu lắng. Không những thế, nó còn vượt lên trên tình cảm tha thiết, lưu luyến, thân tình giữa người ra đi và người về. Câu hỏi tu từ “Về mình có nhớ anh không” mở ra khung cảnh chia ly và cuộc trò chuyện thân tình, luyến lưu của người dân chiến khu với các vị lão thành cách mạng. Chia tay những người cách mạng trở về mà trong lòng người ở lại nặng trĩu một niềm tâm sự, đó không chỉ là nỗi nhớ thương, không cam lòng mà còn là những suy tư, trăn trở về nỗi niềm của người ra đi. Liệu những tình cảm “mặn nồng” được vun đắp, vun đắp suốt quãng thời gian “mười lăm năm” gian khó nhưng đầy yêu thương, liệu tôi có còn nhớ? Và khi về với cuộc sống mới, những người tham gia kháng chiến có còn nhớ những kỷ niệm đã từng có với chiến khu Việt Bắc?
“Ta về có nhớ cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”
Từ “ta” được lặp lại hai lần trong khổ thơ lục bát với sự xuất hiện của nhiều thanh bằng khiến cho câu thơ như trùng xuống, cảm xúc cũng như khắc khoải, da diết hơn. Từ “nhớ” được lặp lại 4 lần càng khắc sâu nỗi nhớ da diết, nỗi nhớ da diết không thể rời xa. Người ở lại đặt câu hỏi tu từ như nhắc nhở người ra về nhớ về ân tình, kỉ niệm với Việt Bắc, đồng thời khẳng định tình cảm chân thành, tha thiết. Bốn câu thơ đầu giản dị như một lời đối đáp nhưng lại gợi cảm xúc mạnh mẽ, đó không chỉ là niềm rạo rực, xúc động trong lòng người đi mà còn đánh thức những rung động đẹp đẽ trong lòng người. trái tim người đọc.
Nếu bốn câu thơ đầu là lời của người ở lại thì bốn câu thơ sau là lời đáp của người ra đi:
“Tiếng ai thiết tha bên cồn, Trong bụng cồn cào, chước bước, Áo chàm đưa tiễn biệt, Nắm tay nhau, biết nói gì hôm nay”.
Không trực tiếp trả lời những câu hỏi của người ở lại, Tố Hữu đã thay mặt những người cách mạng về nước khẳng định tình cảm thủy chung, gắn bó với con người và mảnh đất Việt Bắc. Bước chân anh trở nên nặng trĩu, anh không thể bước nổi vì bên tai đầy ắp tiếng cười, trong trái tim trống rỗng, anh cảm thấy một tình cảm thiết tha với đồng bào chiến khu. “Tiếng ai” ở đây là đại từ bất định, có thể là tiếng của một nhân vật xuất hiện trong buổi tiệc chia tay, cũng có thể là tiếng hoài niệm của Việt Bắc nói chung. Các từ láy “xót xa, trăn trở, thiết tha” đã tái hiện một cách xúc động cảm xúc hoài niệm của người cách mạng. Nỗi nhớ nhung như một cơn sóng lòng dồn nén nhưng cũng vô cùng mạnh mẽ trong trái tim mỗi người cách mạng.
“Nấm chàm đưa tiễn, Nắm tay nhau, biết nói gì hôm nay”
Ở các câu 7, 8, nhịp điệu linh hoạt 3/3, 3/3/2 đã tái hiện thành công tâm trạng bối rối, những bước chân ngập ngừng như muốn đi mà không muốn đi. Hình ảnh “áo chàm” không chỉ gợi lên trang phục thân thuộc, bình dị của người dân Việt Bắc mà còn gợi lên tình cảm thủy chung, màu áo không bao giờ phai trong lòng người cách mạng. Nỗi nhớ nhung, lưu luyến còn thể hiện ở sự ngập ngừng, muốn nói mà lại thôi “Nắm tay nhau biết nói gì hôm nay”, có quá nhiều điều muốn nói, muốn bày tỏ mà chẳng biết bắt đầu từ đâu. Nhưng chỉ một cái “nắm tay” đã thay đổi tất cả những điều tôi muốn nói.
Nhà thơ Tố Hữu đã vận dụng khéo léo lối đối thoại quen thuộc trong ca dao, kết hợp với giọng điệu mượt mà, uyển chuyển, nhà thơ không chỉ mở ra khung cảnh chia ly đầy luyến tiếc mà còn vượt lên trên tình yêu. tình cảm nồng nàn, mặn nồng giữa người ra đi và người ở lại.
——Bản tóm tắt——
Bên cạnh tìm hiểu về tình cảm dân tộc trong 8 câu đầu bài thơ Việt Bắc, để củng cố kiến thức về tác phẩm, các em có thể tham khảo thêm: tìm hiểu Cảm nghĩ về người đã khuất trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu, Cảnh thiên nhiên và con người trong bài bài thơ Việt Bắc, Cảm nhận về bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc, Bình giảng 20 dòng đầu bài thơ Việt Bắc.
Bản quyền bài viết thuộc về trường THPT Lê Hồng Phong. Mọi sao chép đều là gian lận!
Nguồn chia sẻ: https://c3lehongphonghp.edu.vn
Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài thơ Việt Bắc