tìm hiểu và chứng minh Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng một quốc gia của ca dao thần thoại để thể hiện tư tưởng quốc gia của nhân dân
Bài văn mẫu tìm hiểu và chứng minh Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng một quốc gia của ca dao thần thoại để thể hiện tư tưởng quốc gia của nhân dân
Bài làm
quốc gia – hai tiếng thiêng liêng ấy vang lên tự sâu thẳm tâm hồn ta vừa cao cả, trọng thể, vừa xiết bao bình dị, sắp gũi. Hình tượng quốc gia đã khơi nguồn cho biết bao hồn thơ chứa cánh. Văn học kháng chiến 1945 – 1975 trong mạch chảy ngầm dạt dào, mãnh liệt của cuộc sống không chỉ bắt được những âm vang náo nức cùa thời đại mà còn khắc tạc nên tượng đài nghệ thuật quốc gia thật nên thơ, cao đẹp. quốc gia hóa thân trong một mảnh hồn quê Kinh Bắc đặm đà màu sắc văn hóa dân gian, tình tứ, dịu dàng mà quằn quại dưới gót giày xâm lược trong thơ Hoàng Cầm; quốc gia tươi đẹp mà đau thương với sức vươn khỏe khoắn “rũ bùn đứng dậy sáng lòa” sống động hiện hình lên trong thơ Nguyễn Đình Thi.
Từ chiến trường Bình Trị Thiên khói lửa, trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm là tiếng ca sôi nổi nhiệt tình chứa lên từ trái tim tuổi xanh xuống đường tranh đấu, trong đó những trang thơ khắc hình quốc gia là những nốt nhạc trong trẻo, xanh tươi nhất, rung động lòng người nhất, được tỏa sáng dưới một cái nhìn mới mẻ đầy tính phát hiện của thi nhân. Xuyên suốt đoạn trích quốc gia, tư tưởng “quốc gia của nhân dân” nhuần nhyễn trong phương thức “quốc gia của ca dao thần thoại” như một sợi chỉ đỏ tạo nên mạch chảy đằm sâu, tha thiết của xúc cảm thi sĩ.
Giản dị như một lẽ tự nhiên, một vầng trăng cố tích huyền ảo gợi lên trong toàn cầu “ngày xửa ngày xưa”, một điệu hồn mềm mại trong sáng vút ngân từ trái tim nồng nàn yêu thương của mẹ trong những lời ru đong đầy vành nôi… tất cả thắm vào tâm hồn mỗi con người tự bao giờ. Dòng nước ngọt ngào của tình mẹ tắm mát hồn ta, ươm lên mảnh đất tâm hồn ta những hạt giống tốt lành trước tiên để từ đó nảy mầm xanh tươi vươn lên đón nhận nắng gió của thế cuộc. toàn cầu tuổi thơ – toàn cầu của trí tưởng tượng bay bổng ấy, thật kì diệu, gắn bó sâu xa tựa như trở thành tương đối thở, thành máu thịt nuôi dưỡng tâm hồn. Và cũng chẳng biết tự bao giờ, tình yêu quê hương quốc gia đặm đà, từ vành nôi của mẹ, thành hình trong ta từ trong tiềm thức… Văn học dân gian nói chung, ca dao thần thoại nói riêng chính là vong hồn dân tộc. Có thể nói đây là phòng ban văn học trong sáng, giàu sức sống nhất và cũng biểu hiện rõ nhất điệu hồn dân tộc – một giọng điệu hồn hậu, tươi duyên và đằm thắm không người nào khác chính nhân dân – tập thể những người lao động – trong quá trình lao động cải tạo thiên nhiên, là tác giả cùa nền văn học dân gian dồi dào sáng tạo ấy. Với những xúc động thực lòng mãnh liệt của một hồn thơ nảy nở từ nguồn sữa dân gian dạt dào, với sự cảm hiểu sâu sắc của một thanh niên trí tuệ có vốn văn hóa sâu rộng, phong phú đang trực tiếp trải nghiệm trong cuộc đấu tranh sôi nổi, quyết liệt của nhân dân dưới mưa bom bão đạn của quân thù Nguyễn Khoa Điềm tìm về với cội nguồn “ca dao, thần thoại” để bật lên ánh sáng tư tưởng “quốc gia của nhân dân”, vừa độc đáo mới mẻ, vừa thể hiện cái nhìn chuẩn xác, toàn diện, có chiều sâu của thi sĩ về quốc gia, về nhân dân. Tư tưởng chủ đạo ấy thấm nhuần từ xúc cảm tới việc sử dụng chi tiết nghệ thuật bài thơ. Đi suốt đoạn trích, ta bắt gặp một toàn cầu vừa sắp gũi, thân quen, vừa kì diệu sâu xa khơi dậy hồn quốc gia. Và chương V của bản trường ca Mặt đường khát vọng được tắm đẫm, được bao bọc bởi bầu không khí văn hóa dân gian gắn bó máu thịt với mỗi tâm hồn, trong đó âm hưởng “quốc gia của “nhân dân” là nốt nhạc chủ đạo ngân vang suốt bản đàn “quốc gia”.
Khi ta lớn lên quốc gia đã có rồi
quốc gia có trong những cái “ngày xửa ngày xưa”… mẹ thường hay kể
quốc gia khởi đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
quốc gia lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Những câu thơ mở đầu đoạn trích, thật tự nhiên và sâu lắng, nói với ta bao điều giản dị mà cũng thật thiêng liêng, thật thấm thía. Một toàn cầu cổ tích, truyền thuyết xưa như ùa về, sống dậy trong tâm hồn người đọc: câu chuyện
Trầu Cau với tình người nồng hậu, thủy chung, biểu tượng đạo lí sáng đẹp yêu thương của dân tộc; sự tích Thánh Gióng như khúc anh hùng ca tráng lệ tự hào, biểu tượng sức mạnh thần kì của nhân dân Việt Nam từ buổi rạng đông non trẻ dựng nước và giữ nước. tương đối thở trải dài, trầm lắng ngân nga như tiếng lòng quốc gia dội về tự thuở nào, gợi dậy quá trình sinh thành và tồn tại của quốc gia. nếu như như trong cổ tích, truyền thuyết xưa, nhân dân là những cô Tấm, những chàng Thạch Sanh… hay hóa thân trong vẻ đẹp Thánh Gióng, Sọ Dừa, thì trên trang thơ Nguyễn Khoa Điềm, nhân dân hiện lên thân yêu, sắp gũi qua dáng hình của bà, của mẹ, của “dân mình”. Còn quốc gia, không phải là một hình người khổng lồ xa lạ, hay là một khái niệm trừu tượng mà là những gì giản dị, thân thiết trong cuộc sống hàng ngày của mỗi con người. quốc gia hiện hình từ câu chuvện cổ tích của mẹ, miếng trầu của bà tới cái kèo, cái cột trong nhà, hạt gạo ta ăn hàng ngày. Tất cả những vật thân quen, bình dị ấy trong dời sống vật chất, cùng với những phong tục tập quán trong đời sông ý thức của nhân dân: ăn trầu, trồng tre, búi tóc sau đầu, cách đặt tên người…, và cả tình yêu của con người (“cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”) đều làm nên khuôn mặt dân tộc – một dân tộc tình nghĩa, đằm thắm như trong câu ca dao gợi lên trong ta:
Tay nâng chén muối, đĩa gừng
Gừng cay, muối mặn xin đừng quên nhau
Chất dân gian, hồn dân tộc như thấm vào từng câu từng chữ. quốc gia bắt nguồn từ những cái hàng ngày sắp gũi, lại là những cái vững bền sâu xa, đã hình thành và tồn tại từ nghìn xưa trong đời sống dân tộc; từ những phong tục tập quán xa xưa như không có tuổi, lại là sự tiếp nối thiêng liêng, thấm đượm qua nhiều thế hệ. Đó chính là chiều sâu văn hóa – lịch sử của quốc gia thể hiện ngay trong cuộc sống sắp gũi hàng ngày của nhân dân. Có thể nói, bằng những hình tượng cụ thể, sinh động giàu sức khơi gợi. Nguyễn Khoa Điềm đã đưa ra khái niệm mới mẽ, độc đáo về quốc gia. Những câu thơ mở đầu như khúc dạo thiết tha đưa người đọc vào toàn cầu nghệ thuật của đoạn thơ, vừa sắp gũi, thân quen, vừa huyền ảo, diệu kì tự xa xưa.
Không những thế, quốc gia trong thơ Nguyễn Khoa Điềm còn gắn với kỉ niệm riêng tư của mỗi con người, biến thành máu thịt của mỗi người. Tách Đất và Nước thành hai yêu tố, thi sĩ soi chiếu mối quan hệ quốc gia với không gian và thời gian, với lịch sứ và hiện tại. quốc gia là mảnh đất thân thuộc, gắn bó với mỗi con người:
Đất là nơi anh tới trường
Nước là nơi em tắm.
quốc gia còn là núi sông rừng bể mông mênh, là không gian sinh tồn và phát triển của bao thế hệ người Việt. Và thật thiêng liêng, quốc gia là chứng nhân ghi dấu kỉ niệm tình yêu:
quốc gia là nơi ta hò hứa
quốc gia là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm.
Câu thơ thể hiện ngòi bút tài hoa, tinh tế của thi nhân. Ta như lắng tai điệu bài ca dao “khăn thương nhớ người nào” dìu dặt trong bài thơ. Kỉ niệm đẹp đẽ, xúc động của tình yêu như khơi dậy xôn xao, óng ánh mỗi dòng thơ, ẩn sau đó là biết bao xao xuyến, bâng khuâng của “cái thuở ban đầu lưu luyến ấy”. vì vậy, ấn tượng về sự gắn bó thân thiết với mỗi tư nhân cùa quốc gia càng khắc ghi sâu đậm.
Những câu thơ sau lại thấm nhuần chất dân gian nhờ cách sử dụng linh hoạt chọn lựa lọc chất liệu văn hóa dân gian:
Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”
Theo mạch suy tưởng, tác giả tiếp tục cảm nhận quốc gia ở phương diện lịch sử với huyền thoại Lạc Long Quân và Âu Cơ “đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng”, truyền thuyết Hùng Vương với ngày giỗ tổ. Những câu thơ gợi xúc cảm trọng thể, thiêng liêng khi hướng về nguồn cội ông cha. Những trị giá truyền thống, phong tục, văn hóa vững bền ấy tạo nên mạch ngầm chảy từ quá khứ, nối liền hiện tại và tương lai:
Những người nào đã khuất
Những người nào bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Dặn dò con cháu chuyện ngày mai
Hàng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ tổ.
Cảm nhận quốc gia, Nguyễn Khoa Điềm đã phát hiện mối quan hệ biện giải giữa con người và quốc gia, tạo nên sự “hài hòa, nồng thắm”:
Trong anh và em ngày hôm nay đều có một phần quốc gia
Một “quốc gia của ca dao thần thoại” đi vào tâm hồn con người từ thuở trong nôi, một “quốc gia của Nhân dân” gắn bó sắp gũi, thiêng liêng trong cuộc sống hàng ngày, quốc gia đã quấn quyện trong tương đối thở, máu thịt mỗi người. Những câu thơ đang từ tính chất độc thoại, hướng nội chuyển sang hội thoại ,đặt ra trách nhiệm của mỗi tư nhân đối với quốc gia.
Em ơi em quốc gia là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ.
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên quốc gia muôn thuở. Câu thơ dù là phương thức mệnh lệnh, nhưng với giọng điệu thiết tha, với xúc cảm mãnh liệt bật lên từ trái tim, từ sự cảm hiểu sâu sắc về quốc gia, điệu thơ có sức cuốn hút, thôi thúc mạnh mẽ, tác động tới tâm hồn và trí tuệ người đọc. Mỗi con người gắn bó máu thịt với quốc gia nên phải biết bảo vệ, giữ gìn quốc gia, hơn nữa phải hi sinh vì quốc gia khi vận mệnh dân tộc lâm nguy để mảnh đất mãi mỡ màu, xanh tươi những khúc hát tự do như người con gái trong bài thơ.
Quê hương của Giang Nam: “Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất có một phần xương thịt của em tôi”. Trong hoàn cảnh quốc gia đang gồng mình dưới mưa bom bão đạn của quân thù, những vần thơ cùa Nguyễn Khoa Điềm càng có sức lay động sâu xa lòng người, khơi dậy trong mỗi người ngọn lửa yêu thương, tranh đấu, hi sinh bởi trách nhiệm với quốc gia chính là trách nhiệm với chính bản thân mình, với truyền thống văn hóa ngày xưa của nhân dân. Những câu thơ viết về chính trị mà không khô khan chính vì “phát khởi tự trong lòng” thi nhân, thấm nhuần xúc cảm dạt dào hứng khởi và nói với ta biết bao điều thiêng liêng về quốc gia, về trách nhiệm bản thân đối với quốc gia.
Đi suốt đoạn thơ và nhập sâu vào trong xúc cảm thi sĩ, tư tưởng “quốc gia của nhân dân” càng sáng lên rạng rỡ. quốc gia được nhìn từ phương diện địa lí, lịch sử văn hóa trở nên trọng thể, đẹp đẽ lạ thường.
Những câu thơ như trải rộng mãi cùng cái nhìn, toàn cảnh thiên nhiên đất nươc từ Bắc xuống Nam, từ biển lên rừng. Đôi mắt thi nhân tưởng như muốn ôm trọn những cảnh quan mĩ lệ, kì thú của non sông:
những người vợ nhớ chồng còn góp cho quốc gia những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo góp cho quốc gia mình núi Bút, non Nghiên
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm.
Vốn văn hóa dân gian sâu rộng trải ra trên mỗi trang thơ với những phát hiện mới mẻ,sâu sắc và tinh tế của thi sĩ. Những chất liệu dân gian như cổ tích, truyền thuyết… từ sự tích núi Vọng Phu tới hòn Trống Mái, từ chuyện Thánh Gióng tới sự tích chín mươi chín con voi quây quần thuần phục nơi đất Tổ Hùng Vương, từ những sự tích về núi Bút, non Nghiên, thắng cảnh Hạ Long hay những địa danh Nam Bộ… mỗi danh lam thắng cảnh tươi đẹp của quốc gia gắn với truyền thuyết riêng, tạo nên một toàn cầu cố tích huyền diệu. Nhưng có nhẽ nét sâu sắc hơn, tài hoa hơn cả chính ở cái nhìn “quốc gia của nhân dân” nên mỗi cảnh quan quốc gia đều in dấu hình dáng con người: nhưng người vợ nhớ chồng, cặp vợ chồng yêu nhau, người học trò nghèo, những người dân,… và cả tới những con vật sắp gũi thân quen của cuộc sống con người (con cóc, con gà quê hương) cũng góp phần tô điểm vẻ đẹp dáng hình quốc gia, nhân dân không chỉ bằng những sinh hoạt của mình, giải nghĩa những truyền thuyết, mà còn sáng tạo ra danh lam thắng cảnh đẹp đẽ, mang hồn thiêng núi sông, dân tộc. Thiên nhiên quốc gia hiện lên chính là một phần máu thịt, tâm hồn của nhân dân. Từ đó, tác giả khái quát, nâng lên như một suy tư giàu chất triết luận:
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình một ước ao một lối sống ông cha.
Ôi quốc gia sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những thế cuộc đã hóa núi sông ta.
Vượt qua thời gian đằng đẵng, nhìn xa vào bốn nghìn năm quốc gia, có bề lịch sừ hào hùng của quốc gia như sống dậy. Ca dao xưa nói về nỗi nhớ quê hương qua những chi tiết thật bình dị của bữa cơm thanh đạm và bóng vía dầm sương dãi nắng.
Anh đi anh nhớ quê nhà
Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương
Nhớ người nào dãi nắng dầm sương
Nhớ người nào tát nước bên đường hôm nao
Nhìn lại lịch sứ dài lâu của quốc gia, ta thường khắc ghi những triều đại, ngợi ca những anh hùng ghi danh trong trang sử vàng của dân tộc.
Những giác quan “quốc gia của Nhân dân” như sợi chỉ đỏ xuyên suốt, chi phối cái nhìn lịch sử của thi sĩ. Nhân dân là người sáng tạo ra quốc gia, tranh đấu bảo vệ quốc gia. Những cụm từ lấy ra trong ca dao, tục ngữ: “nuôi cái cùng con”, “giặc tới nhà nữ giới cũng đánh” tạo cho lời thơ sự hòa quyện rất gợi cảm. Nốt nhấn của khúc ca ca tụng nhân dân chính là điểm sáng ngời trong phẩm chất nhân dân:
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không người nào nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra quốc gia.
Nhân dân trong quan niệm Nguyễn Khoa Điềm, là tập thể những người anh hùng vô danh. Họ sống giản dị, chết bình tâm, tranh đấu không phải để mang tên cho lịch sử mà vì một lẽ thiêng liêng, bình dị và cao cả: bảo vệ quốc gia. Câu thơ ngắn, cô đúc nhưng lại chính là sự dồn nén của xúc cảm tác phẩm, ấn chứa biết bao xúc động thực lòng trước những hi sinh thầm lặng, những đóng góp lớn lao của những con người vô danh, hiền lành và giản dị.
Từ cái nhìn đầy tính phát hiện, tác giả nhấn mạnh vai trò của nhân dân. Nhân dân, bằng máu xương của mình đã tranh đấu bảo vệ giữ gìn quốc gia, họ là những anh hùng chiến trường. Nhân dân, bằng lao động sáng tạo đã dựng xây quốc gia, giữ gìn và truyền lại cho những thế hệ Việt Nam mọi trị giá văn hóa, phẩm chất ý thức: từ hạt lúa với nền văn minh lúa nước, ngọn lửa tạo nên bước tiến của loài người tới những của cải ý thức quý báu như phong tục tập quán, giọng nói ông cha, tên xã, tên làng… họ là những anh hùng văn hóa. Nhân dân đã ấp iu qua nhiều thế hệ nhưng phẩm chất cao đẹp đúc kết trong những câu ca dao, tục ngữ đi vào lòng người, dễ thuộc dễ nhớ. Đó là cái gốc rễ mọi tình cảm đẹp, tình yêu thương, thể hiện trong câu ca dao hóm hỉnh:
Yêu em từ thuở trong nôi
Em nằm em khóc, anh ngồi anh ru
Đó là sự quý trọng công sức lao động:
Cầm vàng mà lội qua sông
Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng
Đó còn là ý thức quật cường quật cường và lòng căm thù giặc sâu sắc:
Thù này ắt hẳn còn lâu
Trồng tre nên gậy, gặp đâu đánh què
Sử dụng linh hoạt sáng tạo chất liệu ca dao của văn học dân gian, nhường nhịn như có một sự đồng diệu và gặp nhau trong tâm hồn ông cha nghìn xưa và thế hệ hiện tại. Phải thấu hiểu, trân trọng trị giá văn hóa dân tộc thì tác giả mới có cái nhìn sâu sắc, mới mẻ ấy trong quan niệm “quốc gia của Nhân dân”.
Cảm hứng thơ dồn dập dâng trào tới đỉnh điểm từ đó bật lên điểm sáng cốt lõi trong quan niệm quốc gia của Nguyễn Khoa Điềm.
Để quốc gia này là quốc gia Nhân dân
quốc gia của Nhân dân, quốc gia của ca dao thần thoại.
Đoạn trích khép lại bằng hình ảnh dòng sông đưa nước từ những phương trời xa tắm mát tâm hồn ta và vẻ đẹp cùa thiên nhiên, con người đất Việt “gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”. Phải chăng đó cũng chính là dòng sông của truyền thống lịch sử chảy về tự nghìn xưa, từ đó bồi đắp phù sa cho tâm hồn muôn thế hệ? Và lời thơ kết rung động lòng người bởi nó bật lên từ sự xúc động thực lòng của trái tim thi sĩ: “Ta nghẹn ngào quốc gia Việt Nam ơi!”. Cái “nghẹn ngào” của thi sĩ thật đáng quý, đáng trân trọng, đó là kết tinh của những xúc cảm mãnh liệt và suy tư, chiêm nghiệm sâu sắc về quốc gia, về vai trò to lớn và vẻ đẹp cao cả của nhân dân, là tiếng lòng thực lòng của cả thế hệ hướng tới nguồn cội dân tộc, tới truyền thông văn hóa, lịch sử vững bền mà nhân dân là người sáng tạo, bảo tồn và truyền lại cho con cháu ngày mai.
Có thể gọi quốc gia là một tùy bút thơ của Nguyễn Khoa Điềm, trong đó tác giả không đơn thuần viết theo dòng chảy xúc cảm mà còn huy động vào thơ kho hiểu biết dồi dào trong tính tổng hợp về địa lí, lịch sử, văn hóa dân gian mà tâm điểm là văn học dân gian. Đoạn trích được xây dựng theo phương thức luận đề, chất “tư duy lôgic” dễ làm thơ mất đi chất “tươi xanh sức sống”, khô khan, chỉ tác động vào lí trí. Hơn nữa với vốn tri thức phong phú tổng hợp khiến thơ dễ sa vào ước lệ, khô cứng như một bài diễn ca xã hội học. Nhưng không! Viết về quốc gia, về một nguồn mạch cảm hứng lớn của thi ca nói chung và thơ cách mệnh nói riêng, Nguyễn Khoa Điềm đã chiết xuất chất liệu văn hóa dân gian, đưa vào tiếng nói thơ những chi tiết hiện thực sắp gũi, phổ biến, không chỉ thân thuộc trong nhận thức mà còn có sức lay động tình cảm sâu xa đối với mọi tâm hồn Việt Nam. Việc sử dụng khá dày, đậm nhưng cũng rất linh hoạt sáng tạo nguồn văn học dân gian tạo nên toàn cầu thơ bình dị, gắn bó máu thịt với tâm hồn người đọc và dễ đi vào lòng người bởi tiếng nói dân gian hồn hậu, trong sáng. Chính sách sử dụng tiếng nói này tạo sắc điệu thẩm mĩ và không khí riêng cho đoạn thơ, đồng thời thể hiện rõ nét tư tưởng “quốc gia của Nhân dân” bởi nhân dân đã sáng tạo ra nền văn học dân gian giàu sức sống, thân quen sắp gũi với mỗi người dân đất Việt.
Mặt khác, chính cám xúc thực lòng, mãnh liệt của thi nhân mang lại cho thi sĩ âm hưởng tha thiết, ngân vang, với nhiều giọng điệu lúc thì nồng nhiệt say mê, khi lại trầm lắng như trò chuyện, tâm tình về những nhận thức, xúc cảm về quốc gia, nhân dân. Mỗi chi tiết, hình ảnh đưa ra đều thấm nhuần tâm hồn thi sĩ, khi thìa là cảm nhận riêng tư, lúc lại chứa chan xúc cảm như hồi ức, một kỉ niệm. Sự kết. hợp hài hòa chất trữ tình và giọng chính luận cho đoạn thơ vẻ đẹp riêng độc đáo, thơ không xa lạ mà đi vào lòng người tiếng nói tình xúc cảm động thực lòng mà vẫn thế hiện chất trí tuệ. Chúng ta trải nghiệm bản thân của một thi sĩ – đội viên lăn mình trong khói lửa chiến tranh cùng với vốn văn hóa sâu rộng và tình cảm yêu thương quốc gia, trân trọng, ca tụng nhân dân đã tỏa sáng tư tưởng, tâm hồn thi nhân.
Cũng viết về đề tài quốc gia, thơ ta chống Mĩ không chỉ kế tương truyền thống yêu nước từ văn học giai đoạn trước và trực tiếp nhất là thơ ca chống Pháp mà còn có đóng góp làm phong phú, sâu sắc thêm nguồn cảm hứng dạt dào này. Nguyễn Trãi trước kia từng thấy được vai trò “lật thuyền mới biết dân như nước”, Phan Bội Châu từng viết “dân là dân nước, nước là nước dân”, nhưng phải tới Nguyễn Khoa Điềm, tư tưởng “quốc gia của Nhân dân” mới thể hiện rõ nét và được nâng lên thành cảm hứng nghệ thuật của thơ ca chống mỹ. Bằng những khám phá, phát hiện về chiều sâu văn hóa – lịch sử quốc gia, sự gắn bó giữa truyền thống quá khứ và hiện tại, với trục đường đi riêng: trục đường của văn học dân gian sắp gũi, kì diệu, tư tưởng của Nguyễn Khoa Điềm thấm vào từng hình tượng, tiếng nói với mối liên tưởng, tưởng tượng phong phú, độc đáo và thông minh. Có thế nói đây là phần tinh túy nhất, sâu sắc nhất trong trường ca Mặt nhường nhịn khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm.
Văn học chống Mĩ cũng có những cảm nhận sâu sắc về nhân dân, đặt nền tảng cho lòng yêu nước: Nguyễn Duy suy nghĩ về nhân dân qua một tương đối ấm ổ rơm- hay hình tượng Tre Việt Nam, còn Thanh Thảo trong trường ca những người đi tới biển đã viết lên những lời ca xúc động nhất, về nhân dân:
Và cứ thế nhân dân thường ít nói
Như mẹ tôi lặng lẽ suốt đời
Và cứ thế nhân dân cao vời vợi
Hơn cả những ngôi sao cô độc giữa trời
Nhưng có nhẽ quốc gia của Nguyễn Khoa Điềm với nhạc điệu “quốc gia của thần thoại” để sáng lên tư tưởng “quốc gia của Nhân dân” rất độc đáo là nốt nhạc ngân vang trong bản hòa điệu của thơ ca kháng chiến, thể hiện tâm hồn xúc cảm thi nhân trước vẻ đẹp văn hóa dân tộc, tư tưởng ấy tới nay còn tươi nguyên trị giá của nó bởi trách nhiệm “hóa thân cho dáng hình xứ sở” là vấn đề muôn thuở của thơ ca và cuộc sống.
——————————
kế bên tìm hiểu và chứng minh Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng một quốc gia của ca dao thần thoại để thể hiện tư tưởng quốc gia của nhân dân những em cần tìm hiểu thêm những bài văn hay lớp 12 khác như quốc gia qua dòng suy tưởng của thi sĩ Nguyễn Khoa Điềm hay phần quốc gia của Nguyễn Khoa Điềm đem tới cho em hiểu biết gì về quốc gia nhằm củng cố tri thức, chuẩn bị tốt cho những kỳ thi cuối cấp của mình.
Bản quyền bài viết thuộc THPTSocTrang.Edu.Vn. Mọi hành vi sao chép đều là gian lận!
Nguồn chia sẻ: thptsoctrang.edu.vn