Đề bài: tìm hiểu và nêu cảm tưởng của em về bài “Chiếu dời đô” của Lý Thái Tổ
4 bài văn tìm hiểu và nêu cảm tưởng của em về bài “Chiếu dời đô” của Lý Thái Tổ
I. Dàn ý tìm hiểu và nêu cảm tưởng của em về bài “Chiếu dời đô” của Lý Thái Tổ
1. Mở bài
– Giới thiệu về Lí Thái Tổ và tác phẩm Chiếu dời đô
2. Thân bài
– Khái quát vài nét về tác giả và thể loại chiếu.
– Chỉ ra lí dời đô:+ Đưa dẫn chứng “Nhà Thương tới vua Bàn Canh năm lần dời đô” à Việc dời đô đã có từ xa xưa.+ Dời đô để mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn thuở cho con cháu chứ không vì tư lợi hay hứng thú nhất thời.+ Việc dời đô là thuận theo mệnh trời; nếu như được sự đồng lòng của nhân dân có thể làm cho vận nước trong tương lai, phong tục phồn thịnh.+ Hai nhà Đinh, Lê khinh thường mệnh trời mà vận nước ngắn ngủi, nhân dân không thể ổn định gia đình lạc nghiệp.+ tìm hiểu tính đúng đắn của việc dời đô về Đại La: trung tâm trời đất, hướng nhìn sông tựa núi, thế rồng cuộn hổ ngồi…
– Hỏi ý kiến của triều thần, nhân dân ““Trẫm muốn dựa vào sự thuận lợi của đất ấy để định chỗ ở. những khanh nghĩ thế nào?”
–> Lời trưng cầu thể hiện sự anh minh, lấy xã tắc làm trọng của Lí Thái Tổ
– Nghệ thuật:+ Đưa ra những dẫn chứng lịch sử thuyết phục phối hợp với thực tế khách quan+ Lập luận chặt chẽ, sắc bén+ phối hợp giữa lí và tình.
3. Kết bài
Cảm nhận chung.
II. Bài văn mẫu tìm hiểu và nêu cảm tưởng của em về bài Chiếu dời đô của Lý Thái Tổ
1. tìm hiểu và nêu cảm tưởng của em về bài “Chiếu dời đô” của Lý Thái Tổ, mẫu số 1:
Năm 1009, sau khi vị vua cuối cùng của triều Tiền Lê là Lê Long Đĩnh mất, triều Tiền Lê sụp đổ, lúc bấy giờ Lý Công Uẩn được triều thần tôn lên làm vua, lập ra nhà Lý. Năm 1010, Lý Công Uẩn đã viết Chiếu dời đô chiếu cáo triều thần, để dời đô về Thăng Long, mở đầu cho sự phát triển thịnh vượng của nhà Lý suốt 216 năm.Lý Công Uẩn (974 – 1028) hay còn gọi là Lý Thái Tổ, quê ở Bắc Ninh, là người nhân ái, có chí lớn, lập được rất nhiều chiến công và khai sinh ra nhà Lý. Tác phẩm thuộc thể loại chiếu, là thể văn do vua viết sử dụng để công bố những mệnh lệnh cho triều thần hoặc thần dân, thể hiện những tư tưởng lớn lao liên quan tới vận mệnh dân tộc, quốc gia.
Mở đầu bài chiếu Lý Thái Tổ đưa những dẫn chứng “nhà Thương tới vưa Bàn Canh năm lần dời đô”, “nhà Chu tới vua Thành Vương cũng ba lần dời đô”, nhằm khẳng định việc dời đô vốn đã xuất hiện từ xa xưa, không phải chỉ riêng mình nước ta mới có, không phải do ông thích mà “tự ý chuyển dời”. Để khẳng định việc dời đô là hoàn toàn đúng đắn Lý Công Uẩn tiếp tục đưa ra hàng loạt những mục đích cùng với lợi ích mà việc dời đô về Đại La đem lại. Lý do dời đô là để “mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn thuở cho con cháu” chứ không vì tư lợi, hay hứng thú nhất thời. Lý Thái Tổ khéo léo dựa vào thiên mệnh “trên vâng mệnh trời”, sau là trưng cầu ý dân, nếu như thuận lòng cả hai thì mới thay đổi để “vận nước trong tương lai, phong tục phồn thịnh”. Ông chỉ ra rằng hai nhà Đinh, Lê vì “khinh thường mệnh trời”, không noi theo “dấu cũ” của hai nhà Thương, Chu nên mới có kết quả là vận nước ngắn ngủi, gây tổn hao, nhân dân không được ổn định gia đình lạc nghiệp. Hơn thế nữa cũng nói lên rằng thế lực hai nhà Đinh, Lê không đủ mạnh phải dựa vào địa hình đồi núi hiểm trở, nhưng nay nhà Lý thế nước đã vững mạnh, Hoa Lư không còn thích hợp làm kinh đô nữa. Kết lại Lý Thái Tổ thể hiện lòng đau xót, thương cảm và lần nữa khẳng định “không thể không dời đổi” kinh đô về nơi khác thích hợp hơn.
Những bài tìm hiểu và nêu cảm tưởng của em về bài “Chiếu dời đô” hay nhất
Sau phần lý lẽ chặt chẽ, sắc bén, giàu sức thuyết phục, về nguyên do và mục đích dời đô, Lý Công Uẩn đi vào tìm hiểu về vùng đất Đại La nơi ông định dời đô về. trước hết ông lật lại sử cũ, Đại La vốn là kinh đô của Cao Vương, một viên quan nhà Đường, giữ chức Đô hộ sứ ở Giao Châu (nước ta thời xưa) từ năm 864 tới năm 875. Về địa hình, Đại La là “trung tâm trời đất”, lại được cái hướng phía trước nhìn sông, phía sau được núi yểm trợ bao bọc, đất đai cao và thoáng. Xét về phong thủy thì “được cái thế rồng cuộn hổ ngồi”, đúng ngôi nam, bắc, đông, tây theo ngũ hành. Xét về văn hóa, chính trị thìa là nơi “chốn tụ họp trọng yếu của bốn phương quốc gia”, là đầu mối giao thông, huyết quản cho cả nước. Chung quy lại Đại La hầu như đã tụ họp đủ mọi yếu tố thuận lợi cho quân sự, kinh tế, chính trị, văn hóa, để trở thành “kinh đô bậc nhất của đế vương muôn thuở”. Phần này vừa thể hiện được tình cảm nguyện vọng của nhà vua, vừa thấy được tầm nhìn chiến lược, rộng lớn có sự quan sát, nghiên cứu tỉ mỉ của một vị vua anh minh lỗi lạc. Ông không đưa ra những ý kiến chủ quan nửa vời, mà ý nào cũng chuẩn xác, lý luận sắc bén, hợp tình, hợp lý, giàu sức thuyết phục.Cuối bài nhà vua kết lại “Trẫm muốn dựa vào sự thuận lợi của đất ấy để định chỗ ở. những khanh nghĩ thế nào?”, đây là lời trưng cầu ý kiến thể hiện sự anh minh, không áp đặt suy nghĩ tư nhân mà luôn lấy nhân dân xã tắc làm trọng, phải đủ cả ba yếu tố “thiên thời – địa lợi – nhân hòa” thì mới thành sự được, một đức tính thận trọng, tỉ mẩn vô cùng đáng quý ở bậc minh quân.Nghệ thuật chủ yếu của bài nằm ở việc tác giả đưa ra những dẫn chứng chuẩn xác từ lịch sử, từ thực tế khách quan, thêm vào đó là lý luận chặt chẽ, sắc bén, cùng với xúc cảm của nhà vua được đưa vào một cách hợp lý, phối hợp hài hòa giữa lý và tình, điều đó giúp tăng thêm sức thuyết phục cho bài chiếu.Chiếu dời đô phản ánh khát vọng dân tộc về một quốc gia hưng vượng, tự do, độc lập. Đây là một áng văn cổ đầy độc đáo, sáng tạo của ông cha ta, tiếng nói của bậc đế vâng được thể hiện với đầy đủ sự uy nghi, trọng thể, đồng thời cũng thể hiện được tấm lòng thương yêu nhân dân, luôn dồn hết tâm tư vận mệnh quốc gia, vận mệnh dân tộc của Lý Công Uẩn – vị minh quân có công sáng lập ra nhà Lý, và dời đô về Thăng Long, mở ra một trang sử phồn thịnh của dân tộc.
2. tìm hiểu và nêu cảm tưởng của em về bài “Chiếu dời đô” của Lý Thái Tổ, mẫu số 2:
Lí Công Uẩn là vị hoàng đế sáng lập nhà Lý trong lịch sử Việt Nam, thế cuộc ông đã trải qua bao nhiêu thăng trầm, Trong những năm trị vì của mình, ông dành nhiều thời gian để đánh dẹp những nơi phản loạn,triều đình trung ương dần được củng cố, những thế lực phiến quân bị đánh dẹp.Năm Canh Tuất (1010), Lí Thái Tổ viết bài chiếu thổ lộ ý định dời đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) ra thành Đại La (tức Hà Nội ngày nay).. Thành này được đổi tên thành Thăng Long, mở đầu cho sự phát triển trong tương lai của nhà Lý tồn tại hơn 200 năm. Nội dung của Chiếu dời đô đã khẳng định được vai trò của kinh đô Thăng Long,[3] là tác phẩm khai sáng văn học triều Lý, có đầy tính thuyết phục, phản ánh được phần nào khát khao làm chủ giang sơn. Có ý nghĩa to lớn với nền văn học của Việt Nam.
Chiếu dời đô hay Thiên đô chiếu là một đoạn văn được nhà sử học Ngô Sĩ Liên ghi lại sớm nhất ở thế kỷ XV trong sách Đại Việt sử ký toàn thư. Việc xuất hiện bài chiếu có ý nghĩa rất nhiều đối với lịch sử Hoa Lư và Thăng Long. Nó làm nên tính chất trọng đại của hành trình 1000 năm lịch sử. Đó là một áng văn của thời khắc lịch sử từ Hoa Lư tới Thăng Long – một bước ngoặt hào hùng của dân tộc Việt Nam.
Xuất hiện và phát triển trong chế độ phong kiến, chiếu là một loại hình văn bản hành chính có vai trò vô cùng lớn. Ở mọi triều đại, trong mọi thời kì, chiếu luôn được coi là một trong những loại hình văn bản hành chính quan phương nhất, bởi nó trực tiếp thể hiện những mệnh lệnh, những ý kiến, những suy nghĩ của nhà vua và được công bố rộng rãi cho triều thần và nhân dân. Nhưng nó cũng mang trong mình tiếng nói hành chính vừa mang tiếng nói như hội thoại với nhân dân.
Quan sát bài chiếu, bài chiếu được hiểu có thể chia làm 3 đoạn rõ:
Đoạn 1(2 câu đầu): Nêu bật được ý nghĩa của Việc chọn lựa lựa kinh đô địa thế thích hợp đóng vai trò quan trọng tạo điều kiện cho sự phồn vinh của những triều đại trong quá khứ.
Đoạn 2(câu tiếp theo); Phản ánh sự sai phép trong cách vị trí lập kinh đô của nhà Đinh, thực tế là kinh đô cũ không còn thích hợp với sự mở rộng phát triển của quốc gia cho nên cần thiết phải dời đô.
Đoạn 3(4 câu ): nêu bật được vai trò kinh đô Thăng Long xứng đáng là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá mang tầm vóc quốc gia.
Xứng đáng việc chọn lựa kinh đô củng cố cho sự phát triển thịnh vượng của muôn thuở.
tìm hiểu và nêu cảm tưởng của em về bài “Chiếu dời đô”, văn mẫu tuyển chọn lựa
Mỗi văn bản, tác giả để tăng độ thuyết phục,chuẩn xác, vận dụng phương pháp lập luận sắc bén chính là cách mà Lý Công Uẩn sử dụng để thể hiện ý tứ sâu xắc, tầm nhìn thời đại của mình trong việc muốn dời kinh đô của mình, còn nêu một số dẫn chứng trong lịch sử cổ kim để củng cố lí lẽ ấy nội dung ấy được nêu rõ ràng ở đoạn 1. Việc dời đô là việc không hề dễ dàng, trước tâm trạng rối bời của nhiều người với quyết định của ông. Ông đã nhấn mạnh được đó là việc làm thường xuyên của những triều đại cổ Trung quốc tạo nên được những sự thành công to lớn trong cách trị vị của họ, cho nhân dân, quốc gia họ.
” nhà Thương tới đời Bàn Canh”,” nhà Chu tới đời Thành Vương”được tác giả gọi với sự tôn kính ” vua thời Tam Đại” tuần tự họ đều phải dời đô rất nhiều lần, tác giả đặt thắc mắc mở cho nhân dân của mình về cách suy nghĩ trong việc dời đô đó có phải là sự ngông nghênh tự ý, không suy nghĩ trước những quyết định của mình. Đó mở ra nhiều điều chúng ta nên suy ngầm, họ là những bậc anh minh, luôn mong mỏi quốc gia phồn thịnh, ổn định nên việc chọn lựa vùng đất đặt kinh đô để tiện cho việc trị vì dân tộc, hỏi thăm ý dân. Được lòng dân, thuận ý trời mới đưa ra quyết định khó khăn, và nó lại mang tới được rất nhiều sự thay đổi tích cực cho quốc gia, vậy không việc gì họ không làm việc ấy.
Việc dời đô, có thể thấy nó không có gì là thất thường, mang tính thế tất thể hiện những ý tứ sâu sắc, tầm nhìn thời đại mong mỏi của cả vua và dân, đất trời, mong cho quốc gia thay đổi phồn thịnh như quốc gia của những vị vua kia.
Sự suy nghĩ, óc suy đoán, phán xét tài hoa của mình, ông đã đề cập những nhận xét có tính phê phán tới thời nhà Đinh rất sai phép, khiến nhà vua rất buồn, quốc gia, nhân dân cũng héo hon, triều đại phát triển không được hưng thịnh, thời thế nhanh suy. nếu như như ông nhận định, việc dời đô không thể khinh thường ý trời, tự quyết định theo ý người, không noi theo gương những triều đại cổ kim mà sửa đổi, thì mãi mãi quốc gia không thể phát triển trên vùng đất hẹp, địa thế vạn vật không nhân hòa, anh linh đã được chứng minh bằng những căn cứ trong lịch sử mãi mãi hai nhà Đinh vẫn chỉ ở trong vòng củng cố mà không có sự phản kháng, lực lượng tàn dần. Nên khi nhà Lý lên ngôi, thấy được điều quý giá đó , thực tế kinh đô cũ không còn thích hợp với sự mở rộng phát triển của quốc gia cho nên cần thiết phải dời đô.
Còn việc chọn lựa kinh đô là quyết định càng khó khăn hơn nữa cho vị vua anh minh, nhưng thật may mắn vị vua ấy đã hiểu được, có suy nghĩ về địa lý sâu rộng, nên quyết định sau đây của ông đã coi như là một sự thay đổi ngoạn mục cho khuân mặt hưng thịnh của nước nhà, niềm tự hào của cả dân tộc. Đoạn 3 gợi nhắc đên chúng ta điều đó, vẫn lối chứng minh sắc sảo, việc chọn lựa kinh thành Đại La của ông đã thực sự thu phục được lòng người nghe theo, làm theo, dựa vào thuyết phong thủy thượng cổ mà suy đoán được thế đất tốt cho việc phát triển và chứng minh lợi thế và vẻ đẹp muôn mặt của thành Đại La về địa lí, văn hóa, đầu mối giao lưu, điều kiện sống của dân cư và sự phong phú, tươi tốt của cảnh vật. Ông đã trông thấy nơi đây là đất tốt, đất lành, đây sẽ là nơi kinh đô bậc nhất của đế vương muôn thuở,bằng cớ theo lịch sử là thời gian sau đó, Thăng Long vẫn là kinh đô của những triều Trần, nhà Hậu Lê, nhà Mạc, Lê Trung Hưng và đang là Thủ đô của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nó nằm ở vị trí trung tâm của quốc gia.,thế rồng cuộn hổ ngồi rõ ràng núi có sông có , địa thế cao, bốn hướng nam, bắc, đông, tây.
Đây cũng là đầu mối giao lưu chính trị, văn hóa và kinh tế của cả nước nơi đây đủ điều kiện tối ưu để trở thành kinh đô mới của Đại Việt. Và sự tìm hiểu đúng đắn ấy cũng là tâm sự sử gia Ngô Thì Sĩ trong Đại Việt sử ký tiền biên sau này nghiên cứu về kinh thành thăng long đã viết như sau : “Núi là vạt áo che, sông là dải đai thắt, sau lưng là sông nước, trước mặt là biển, địa thế hùng mạnh mà hiếm, rộng mà dài, có thể là nơi vua ở hùng tráng, ngôi báu vững bền toàn bộ hình thể Đại Việt không nơi nào hơn được nơi này”. thắc mắc tu từ tiếp sau đó thể hiện thái độ tôn trọng của người đứng đầu quốc gia đối với triều đình phong kiến đương thời ” Trẫm muốn dựa vào sự thuận lợi của đất ấy để định chỗ ở. những khanh nghĩ thế nào?” trước khi ra bất kì quyết định nào ông cũng chú tâm tới ý kiến của công chúng để thống nhất và ra quyết đinh, thấy được ở đây sự kết đoàn đồng lòng quân dân, và một lần nữa củng cố chắc chắn quyết định này của mình.
“Chiếu dời đô” là một bài văn nghị luận giàu sức thuyết phục bởi có sự phối hợp giữa lý và tình. lời văn tạo nên sự đồng cảm sâu sắc giữa mệnh lệnh của vua với thần dân. Dời đô từ vùng núi Hoa Lư ra vùng đồng bằng đất rộng để chứng tỏ triều đình nhà Lý đủ sức kết thúc nạn phong kiến cát cứ, thế và lực của dân tộc Đại Việt đủ sức sánh ngang hàng phương Bắc. từ đó, có thể thấy được khát vọng mãnh liệt của tổ tiên về một nước Đại Việt độc lập, thống nhất, hùng cường và tư thế hiên ngang của một quốc gia tự chủ đang trên đà phát triển vững mạnh. Để rồi khi nhắc tới tác phẩm này sau hàng nghìn thế hệ, vẫn là sự quyết định đúng đắn của bậc anh nhân đầy thấm thía.
3. tìm hiểu và nêu cảm tưởng của em về bài “Chiếu dời đô” của Lý Thái Tổ, mẫu số 3:
Trong những áng văn nghị luận trung đại, Chiếu dời đô của Lí Công Uẩn có một vị trí quan trọng. nó là áng văn khởi đầu cho nền văn học thời Lí – Trần. Hơn nữa, nó là áng văn trước hết thể hiện khát vọng về một quốc gia độc lập, thống nhất, hung cường và khí phách của dân tộc Đại Việt đang trên đà vững mạnh.
Chiếu dời đô ra đời trong hoàn cảnh lịch sử khá đặc biệt. Tuy không phải là hoàn cảnh giặc thù đang lăm le ngoài biên ải, vận mệnh Tổ quốc lâm nguy như hoàn cảnh ra đời của Hịch tướng sĩ. Cũng không phải không khí tưng bừng rộn ràng của cả dân tộc đang ca khúc khải hoàn như hoàn cảnh ra đời của Bình ngô đại cáo. Đây là hoàn cảnh quốc gia đã thái bình. Nhưng nền thái bình ấy còn mỏng mảnh, nguy cơ giặc giã thôn tính Đại Việt chưa phải là hết. Đây là thời khắc dân tộc ta đã giành được chủ quyền, có núi sông riêng, chế độ riêng, nhưng những triều đại Đinh- Tiền Lê tiếp nối nhau ra đời rồi cũng nhanh chóng tiêu vong. Nhà Lí thành lập. Một trọng trách nặng nề đè nặng trên đôi vai vương triều họ Lí. Làm thế nào để giữ yên giang sơn lãnh thổ, bảo tồn được thành tựu của tổ tông đã giành được? làm thế nào để phát triển quốc gia ngày càng hùng cường? Niềm trằn trọc ấy đã biến thành quyết định dời đô của Lí Thái Tổ(Lí Công Uẩn), và bài Chiếu đã ra đời. Hơn người nào hết, Lí Công Uẩn hiểu rõ lí do phải dời đô cũng như lợi ích của việc dời đô.
Trong lịch sử nhân loại, đã có không ít những lần dời đô. Không xét đâu xa lạ, chỉ riêng một quốc gia kề cận với Đại Việt là Trung Hoa, chỉ ở hai triều đại thôi cũng đã có tới vài lần phải thay đổi kinh đô: Xưa nhà Thương tới vua Bàn Canh năm lần dời đô, nhà Chu tới vua Thành Vương cũng ba lần dời đô. Việc dời đô của những vị đế vương Thương, Chu ấy phải đâu là những việc làm tùy tiện, theo ý riêng của mình. Đó là những việc làm có suy tính tới sự thiệt hơn, tới sự hưng thịnh, tồn vong của giang sơn, xã tắc, tới hạnh phúc trong tương lai của trăm họ, muôn dân. Thật là một việc làm trên theo mệnh trời, dưới theo ý dân, đáng là tấm gương để đời sau noi theo.
tìm hiểu và nêu cảm tưởng của em về bài “Chiếu dời đô”
Từ bài học của những đế vương Trung Hoa, đi sâu vào trong thực tế của Đại Việt, Lí Thái Tổ càng thấy phản ứng, trằn trọc: Kinh Đô của Đại Việt đóng ở Hoa Lư, nơi đất hẹp hè thưa, địa thế tuy có hiểm trở nhưng đâu phải là nơi tiện lợi cho việc giao lưu phát triển, làm sao vận nước có thể trong tương lai, phong tục có thể phồn vinh như những triều đại Thương, Chu bên Trung Quốc? Và thực tế là số vận của hai nhà Đinh, Lê không được lâu bền, số vận ngắn ngủi và trăm họ phải hao tổn, muôn vật không được thích ứng há ko phải là điều đang diễn ra đó sao?
Không chỉ phản ứng, trằn trọc, nhà vua còn cảm thấy rất đau xót về việc đó. Tình cảm tâm thành của ông là khát vọng về quốc gia độc lập, thống nhất, hùng cường. Khát vọng ấy biến thành ý chí hành động không thể chuyển dời.
Bắt nguồn từ một khát vọng lớn lao, cao cả, với một vị trí mẫn tiệp, với tầm nhìn xa, trông rộng của một bặc thiên tài kiệt xuất, vị đế vương nhà Lí đã tìm được cho dân tộc ta một địa danh lí tưởng để định đô trong tương lai. Đó là thành Đại La.( Hà Nội ngay nay). Nhà vua chỉ rõ những bá quan văn võ, cho thần dân cả nước thấy được những lợi thế vô cùng lớn của thành Đại La mà không nơi nào trên quốc gia Đại Việt có được.
Thứ nhất, về vị trí địa lí ở vào nơi trung tâm trời đất, được cái thế rồng cuốn hổ ngồi. Đã đúng ngôi nam bắc đông tây, lại tiện hướng nhìn sông dựa núi. Địa thế rộng mà bằng, đất đai cao mà thoáng. Dân cư khỏi phải chịu cảnh khốn khổ ngập lụt, muôn vật cũng rất mực phong phú, tươi tốt.
Thứ hai, vế chính trị, văn hóa thật là chốn tụ họp trọng yếu của bốn phương, cũng là nơi kinh đô bậc nhất của đế vương muôn thuở.
Đóng đô ở một nơi như thế hỏi làm sao vận nước có thể ngắn ngủi, trăm họ có thể hao tổn, muôn vật có thể không được thích ứng? Chắc chắn là vận nước sẽ được trong tương lai, phong tục sẽ được phồn vinh, trăm dân muôn họ sẽ được an hưởng thái bình hạnh phúc. Hỏi có còn mong ước gì hơn? Một khát vọng thật đẹp. Khát vọng của Lí Thái Tổ cũng là khát vọng của những người dân Đại Việt lúc ấy và cả sau này.
Chiếu dời đô đã đánh trúng vào niềm thèm khát xây dựng một quốc gia độc lập, thống nhất, hùng cườngcuar cả dân tộc nên nó được mọi người nồng nhiệt hưởng ứng. Một kinh đô mới đã ra đời và tồn tại vĩnh viễn.
Chiếu dời đô không chỉ thể hiện một khát vọng lớn, nó còn thể hiện được khí phách của dân tộc Đại Việt đang trên đà vững mạnh.
Do thế và lực còn yếu, chưa đủ sức để ứng phó với nạn ngoại xâm nếu như định đô ở đồng bằng, nên hai nhà Đinh, Lê phải chọn lựa Hoa Lư làm kinh đô mong dựa vào địa thế hiểm trở để bảo tồn vương triều, giữ vững chủ quyền. Bởi chưa vững mạnh nên số vận ngắn ngủi, trăm họk phải hao tổn là lẽ đương nhiên.
Nhưng nay, nhà Lí là sự kế tục sự nghiệp của những triều đại cha anh,có thế đã vững mạnh hơn. Nhưng dù có vững mạnh hơnhay chưa thực sự vững mạnh thì quyết định dời đô của vị Thái Tổ họ Lí cũng đã khẳng định được khí phách anh hùng, dám đương đầu với mọi thử thách, vững tin vào khả năng của mình. Khí phách của vị đế vương trước hết của nhà Lí cũng là khí phách của cả một vương triều, của cả một dân tộc đang trên đà vững mạnh.
Ngày nay, càng đọc kĩ Chiếu dời đô, càng suy ngẫm kĩ về tư tưởng bài Chiếu, ta càng thấy thấm thía sự sang suốt và quyết định đúng đắn của một bậc đế vương hào kiệt, càng thêm hàm ân ông đã đặt nền tảng cho sự vững bền, hưng thịnh trong tương lai của quốc gia, càng thêm cảm phục và quý mến ông.
4. tìm hiểu và nêu cảm tưởng của em về bài “Chiếu dời đô” của Lý Thái Tổ, mẫu số 4:
Lý Công Uẩn (974-1028) quê ở Kinh Bắc, là võ tướng cao cấp của Lê Đại Hành, từng giữ chức Tả thân vệ Điện tiền chỉ huy sứ. Ông là người tài trí, đức độ, kín đáo, nhiều uy vọng. Năm 1009, Lê Ngọa Triều chết, ông được giới tăng lữ và triều thần tôn lên làm vua, tức Lý Thái Tổ dựng nên triều đại nhà Lý tồn tại hơn 200 năm (1009-1225).
Năm 1010, Lý Thái Tổ viết “Thiên đô chiếu ” dời đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) ra thành Đại La, sau đổi là Thăng Long, Kinh đô của Đại Việt.
“Chiếu là lời của vua công bố hiệu lệnh cho thần dân” (Dương Quảng Hàm), thuộc văn xuôi cổ, câu văn có vế đối, ngôn từ trang nghiêm, trọng thể. “Chiêu dời đô” của Lý Công Uẩn là một văn kiện mang ý nghĩa lịch sử to lớn. sắp tới đại lể ki niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội (1010-2010), ta càng thấy rõ ý nghĩa lịch sử trọng đại của luận văn này.
Văn bản chữ Hán chỉ có 214 chữ, bản dịch của Nguyễn Đức Vân dài 360 chữ:
1. Phần đầu ‘Chiếu dời dô” nói lên mục đích sâu xa, tầm quan trọng của việc dời đô là để “Đóng đô ở nơi trung tâm, mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn thuở cho con cháu; trên theo mệnh trời, dưới theo ý dân’. Nói một cách khác, việc dời đô là một việc lớn, vừa hợp mệnh trời vừa hợp lòng dân, là để xây dựng quốc gia hưng vượng, đem lại hạnh phúc, thái bình cho nhân dân.
a. Mục đích và tầm quan trọng
Việc dời đô không còn là chuyện hi hữu, mà đó là những kinh nghiệm lịch sử, phản ánh xu thế phát triển lịch sử của từng quốc gia, từng thời đại. Tác giả đã nêu lên những dẫn chứng lịch sử đế thu phục nhân tâm. Chuyện ở xa là chuyện bên Tàu: “Xưa nhà Thương tới vua Bàn Canh năm lần dời đô; nhà Chu tới vua Thành Vương cũng ba lần dời đô”. Chuyện sắp là ở nước ta thời nhà Đinh, nhà Lê vì chỉ ” theo ý riêng mình, khinh thường, mệnh trời… “, cứ “đóng yên đô thành” ở Hoa Lư nên dẫn tới thảm kịch: “triều đại không được lâu bền, số vận ngắn ngủi, trăm họ phải hao tổn, muôn vật không được thích ứng”… Sử sách cho biết, Đinh Bộ Lĩnh sau khi dẹp tan 12 sứ quân, năm 968 ông lên ngôi hoàng đế thì tới năm 979 nhà vua bị ám hại. Năm 981, Lê Hoàn lên làm vua, tuy đã đánh thắng giặc Tống xâm lược, nhưng năm 1005, Lê Đại Hành thăng hà, thì những thế lực phong kiến, những hoàng tử… lại xung đột, tranh giành ngôi báu, tao loạn kéo dài “trăm họ phải hao tổn” nhiều xương máu, tiền tài. Cái chết của vua Lê Ngọa Triều năm 1009 đã chứng tỏ hai triều đại Đinh, Lê “không được lâu bền, số vận ngắn ngủi”. Hai triều đại Đinh, Lê phải đóng đô là do nhiều nguyên nhân lịch sử: nhà nước phong kiến Việt Nam chưa đủ mạnh, nạn cát cứ của những lãnh chúa hoành hành, giặc giã tao loạn kéo dài. do vậy, những vua nhà Đinh, nhà Lê phải nuôi hổ báo ở trong nhà, phải nấu vạc dầu ở ngoài sân, dựa vào sông sâu núi cao, địa thế hiểm trở vùng Hoa Lư để đóng đô và phòng thủ. Đóng đô ở Hoa Lư là một hạn chế của lịch sử của nhà Đinh, nhà Lê.
Lý Công Uẩn “đau xót” khi nghĩ về “vận số ngắn ngủi” của nhà Đinh, nhà Lê và cảm thấy việc dời đô là một việc cấp thiết “không thể không dời đô”.
Bài văn tìm hiểu bài Chiếu dời đô của Lí Công Uẩn
“Chiếu dời đô ” trong phần mở đầu, lí lẽ sắc bén, dản chứng lịch sử là sự thực hiển nhiên, giàu sức thuyết phục lòng người. Tác giả đã lồng xúc cảm vào bài chiếu, tạo nên bao ấn tượng đẹp: “Trẫm rất đau xót vé việc đó, không thể không dời đổi
Cuốn “Lịch sử Việt Nam ” của Viện Sử học đã viết:
“Việc dời đô về Thăng Long phản ánh yêu cầu phát triển mới của quốc gia phong kiến tập quyền và chứng tỏ khả năng, lòng tin và quyết tâm của cả dân tộc giữ vững nền độc lập “…
b. Đại La rất thuận lợi, rất đẹp để đóng đô.
Đại La không có gì xa lạ, là “Kinh đô cũ của Cao Vương”. Cao Vương là Cao Biền, đại quan của nhà Đường, từng làm Đô hộ sứ Giao Châu từ 864-875; năm 866, Cao Biền đã xây thành Đại La, thuộc Hà Nội ngày nay.
Đại La rất tiện lợi.
Về vị trí địa lí là “ở vào nơi trung tâm trời đất… đã đúng ngôi nam bắc đông tây
Về địa thế, rất đẹp, rất hùng vĩ: “được cái thế rồng cuộn hổ ngồi”, “lại tiện hướng nhìn sông dựa núi”, “địa thế rộng mà bằng; đất đai cao mà thoáng”.
Là một vùng đất trú ngụ lí tưởng cho dân cư, không “ngập lụt “, “muôn vật cũng rất mực phong phú tươi tốt”.
Tóm lại, Đại La là “thắng địa”, là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng, “chốn tụ hội trọng yếu của bốn phương quốc gia”. Đại La xứng đáng là “Kinh đô bậc nhất của đế vương muôn thuở”.
2. Phần thứ hai của “Chiếu dời đô” cho thấy tầm nhìn chiến lược của Lý Công Uẩn về Đại La, nơi sẽ dời đô tới. Một cái nhìn toàn diện, sâu sắc, chuẩn xác về những mặt vị trí địa lí, địa thế, nhân văn… Sau một nghìn năm, Hà Nội đã trở thành thủ đô hòa bình của quốc gia ta, nhân dân ta, ta càng thấy việc dời đô từ Hoa Lư ra Đại La của Lý Công Uẩn là một cống hiến vô cùng vĩ đại “mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn thuở cho con cháu”.
Sử sách còn ghi lại: khi thuyền rồng của nhà vua vừa cập bến sông Nhị Hà ở tâm thành Đại La thì có con rồng vàng bay lên, vua cho là điềm tốt mới đổi tên là Thăng Long. Thăng Long là “Rồng bay lên” thể hiện thế nước và phản ánh khát vọng của nhân dân ta xây dựng Đại Việt thành một quốc gia hưng vượng có nền văn hiến muôn thuở rực rỡ. Ý chí tự lập tự cường và niềm tin về ngày mai tốt đẹp được khẳng định một cách mạnh mẽ.
Về mặt văn học, phần thứ hai “Chiếu dời đô” rất đặc sắc. Cách viết súc tích, giàu hình ảnh và biểu cảm, những vế đối rất chính, đọc lên nghe rất thú vị, mặc dù phải qua bản dịch:
“Huống gì thành Đại La… ở vào nơi trung tâm trời đất //; được cái thế rồng cuộn hổ ngồi. Đã đúng ngôi nam bắc tây đông//, lại tiện hướng nhìn sông dựa núi. Dân cư khỏi chịu cảnh khốn khổ ngập lụt //; muôn vật cũng rất mực phong phú tươi tốt… Thật là chôn tụ hội trọng yếu của bốn phương quốc gia //; cũng là nơi Kinh đô bậc nhất của đế vương muôn thuở .”
3. Phần cuối nguyên tắc ‘Thiên đô chiếu” chỉ có 14 chữ, bản dịch thành 19 chữ. Nhà vua thổ lộ ý mình về việc dời đô và hỏi triều thần. Đúng Lý Công Uẩn là một người “tài trí, đức độ, kín dáo”.
“Trẫm muốn dựa vào sự thuận lợi của đất này để định chỗ ở. những khanh nghĩ thế nào ? “
Việc dời đô của Lý Công Uẩn là một kì tích, kì công. Sau sắp một nghìn năm Thăng Long – Hà Nội “đất văn vật” đã trở thành thú đô của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trung tâm chính trị, kinh tế, quốc phòng, văn hóa của quốc gia ta.
“Chiếu dời đô” là áng văn xuôi cổ độc đáo, đặc sắc của tổ tiên để lại. Ngôn từ trọng thể, đúng là khẩu khí của bậc đế vương. Nó là kết tinh vẻ dẹp tâm hồn và trí tuệ Việt Nam. Nó khơi dậy trong lòng nhân dân ta lòng tự hào và ý chí tự cường mạnh mẽ.
——————-HẾT——————–
kế bên tìm hiểu và nêu cảm tưởng của em về bài “Chiếu dời đô” của Lý Thái Tổ những em cần tìm hiểu thêm những nội dung khác như trị giá nhân văn trong Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn hay phần Suy nghĩ về tình cảm yêu nước thương dân được thể hiện trong Chiếu dời đô, Hịch tướng sĩ nhằm củng cố tri thức của mình.
Bản quyền bài viết thuộc trường THPT thành Phố Sóc Trăng. Mọi hành vi sao chép đều là gian lận!
Nguồn chia sẻ: Trường Cmm.edu.vn (thptsoctrang.edu.vn)